Lịch sử
PHẦN MỞ ĐẦU
ĐẶC ĐIỂM TỰ NHIÊN - XÃ HỘI
VÀ LỊCH SỬ - VĂN HÓA
1.Vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
Phước Tuy là một trong 17 xã, thị trấn của huyện Cần Đước, có diện tích tự nhiên 1.479, 70 ha, dân số là 9.312 người(1), mật độ 630 người/km2, là xã có mật độ dân số trung bình của huyện nhưng thuộc loại đông của tỉnh(2).
Phước Tuy nằm về phía Đông của huyện và cách thị trấn Cần Đước - trung tâm huyện 4 km về hướng Bắc theo đường huyện 21, phía Đông giáp xã Tân Lân và thị trấn Cần Đước, phía Tây được bao bọc bởi sông Vàm Cỏ Đông và sông Vàm Cỏ từ Vàm Bến Trễ đến Kinh Xóm Bồ, phía Nam giáp xã Tân Ân và phía Bắc giáp xã Tân Trạch. Xã có 7 ấp gọi theo thứ tự từ 1 đến 7, là ấp 1, ấp 2, ấp 3, ấp 4, ấp 5, ấp 6 và ấp 7.
Về tổng quan địa lý, được tạo thành trong phân đại Đệ Tứ trên đơn vị trầm tích Holocen, quá trình thành tạo hoàn tất của xã được bắt đầu cách đây khoảng 8.000 năm. Do tính chất vật liệu của nền trầm tích Holocen(3), cảnh quan địa hình ở đây là đồng bằng nằm gần các sông rạch lớn, chịu ảnh hưởng của thủy triều, dưới tác động của yếu tố tự nhiên và con người, thông qua sự phong hóa với các tiến trình sinh - hóa, nhóm đất mặn được hình thành, tuy có độ phì tiềm tàng cao, hàm lượng dinh dưỡng khá, thích nghi với cây lúa nhưng do hàm lượng nước biển trong đất lớn nên chỉ trồng lúa vào mùa mưa. Địa hình của xã thấp và bằng phẳng, mang đặc trưng của vùng Đồng bằng sông Cửu Long, cao độ so với mặt nước biển là 0,7m - 0,9m, dốc nhỏ và nghiêng đều, thấp dần từ Tây sang Đông.
Khí hậu thuộc tính chất Nam Bộ, nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa, với hai mùa nắng mưa rõ rệt, mùa mưa bắt đầu từ tháng 4 và kết thúc vào khoảng tháng 11 trong năm, mùa khô thường bắt đầu vào tháng 12 và kết thúc vào tháng 5 năm sau, với đặc trưng cơ bản là nền nhiệt độ cao, ít biến đổi trong năm, ánh sáng dồi dào, lượng mưa khá lớn(4), thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp theo hướng thâm canh, đặc biệt là cây lúa. Một đặc điểm đáng chú ý là tính chất thất thường của chế độ mưa do ảnh hưởng của cơ chế nhiễu động gây mưa chi phối, nên ngay trong mùa mưa, có những thời kỳ hạn xen kẽ, với mức độ thời gian dài ngắn khác nhau, dân gian gọi là “hạn Bà Chằn”, thường xảy ra vào tháng 8, tháng 9. Về thủy văn, chịu chế độ triều bán nhật của biển Đông, trong 24 giờ có hai lần triều cao và hai lần triều thấp(5), là vùng gần biển qua hạ nguồn sông Vàm Cỏ và Soài Rạp, sông rạch ở Phước Tuy càng chịu ảnh hưởng mạnh của chế độ triều này.
Do sự tương tác giữa các yếu tố tự nhiên như địa mạo, trầm tích đất, nước và các yếu tố khác, cảnh quan tự nhiên ở đây được hình thành với hệ sinh thái động thực vật đặc trưng của vùng ven sông rạch, gần biển, chịu ảnh hưởng của nước mặn và nước lợ với sự có mặt và chiếm ưu thế của các loại cây: mắm, đước, bần xen lẫn với dừa nước, quao nước, ô rô, cóc kèn…, cùng với sự có mặt của các loài cá như: cá bống, cá vược, cá đối, cá úc vàng, cá phèn…, các loài cua, còng và các loài tôm như tôm bạc gần, tôm bạc thẻ, tôm càng, tôm đất…Trong thời gian gần đây, do mục tiêu phát triển kinh tế nông nghiệp chung cho vùng hạ lưu châu thổ sông Cửu Long, đặc biệt là từ sau khi ngăn đập Bến Trễ và một số con đập khác trong khu vực để cải tạo đất, phát triển sản xuất lúa, rác thải và môi trường nước bị ô nhiễm, đã làm hệ sinh thái tự nhiên cùng với tính đa dạng sinh học đất ngập mặn ven sông rạch gần biển ở đây bị suy giảm nghiêm trọng, cảnh quan tự nhiên thay đổi rất nhiều sau một thời gian khai phá. Về tài nguyên thiên nhiên, do đặc thù địa hình sông rạch chằng chịt thuộc hệ thống sông Soài Rạp, Vàm Cỏ Đông và Vàm Cỏ, Phước Tuy có nguồn nước mặt dồi dào và do gần biển Đông, chịu ảnh hưởng của thủy triều nên độ mặn khá cao, ảnh hưởng không tốt đến sản xuất và đời sống nhân dân, đến năm 1998 đã được khắc phục bởi hệ thống thủy lợi Xóm Bồ, Bến Trễ, cống ấp 1, cống ấp 3 và đê bao sông Vàm Cỏ để chủ động nguồn nước trong mục đích ngăn mặn, giữ ngọt. Xã không có nguồn nước ngầm, vì vậy, nước phục vụ cho sinh họat phải đưa từ các xã lân cận về rất tốn kém. Về tài nguyên đất đai, nằm trên địa hình thấp dọc ven biển và ven các cửa sông, thuộc nhóm đất phù sa nhiễm mặn, đất phèn, nhìn chung không được thiên nhiên ưu đãi, nhưng từ khi có các công trình thủy lợi rửa mặn, tưới tiêu, đất đai ở Phước Tuy có độ phì tiềm tàng khá cao, hàm lượng dinh dưỡng khá, thích hợp với cây lúa và màu. Trong 1.479,70 ha diện tích đất tự nhiên của xã có 1.305,7 ha là đất sản xuất nông nghiệp, trong đó chủ yếu là đất trồng lúa 924 ha được sản xuất 02 vụ trong năm. Theo các tài liệu điều tra về đất đai, thổ nhưỡng, đến nay chưa phát hiện tài nguyên khoáng sản nào phân bố trên địa bàn xã.
2. Dân cư, nguồn nhân lực và điều kiện kinh tế - xã hội
Đường huyện 21 nối liền xã với thị trấn Cần Đước và Quốc lộ 50, tỉnh lộ 826 chỉ khoảng 5 km là tuyến giao thông đường bộ quan trọng nhất, cùng với sông Vàm Cỏ Đông, sông Vàm Cỏ và hệ thống chi lưu tỏa vào địa bàn mà quan trọng nhất là sông Cầu Hàn, kết nối Phước Tuy với toàn khu vực, tạo điều kiện thuận lợi về giao thương, trao đổi nông sản hàng hóa và nguồn lao động với trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa của huyện, góp phần phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương.
Cộng đồng cư dân ở Phước Tuy được hình thành từ rất sớm, là cư dân Việt đến từ miền Trung từ thời khẩn hoang lập ấp trong công cuộc Nam tiến vào thế kỷ 17-18, với hướng khai phá theo con đường biển đến cửa Soài Rạp, rồi theo sông Vàm Cỏ ngược lên khai phá rừng hoang, định cư, lập nên làng xóm với các thôn ấp xưa là Khánh Điền, Phước Khánh, Phước Chỉ, Phước Tường và Phước Tuy, tương ứng với 7 ấp của xã ngày nay. Đặc điểm cư dân ở Phước Tuy là thuần nhất với 99% là cư dân bản địa, chủ yếu là người Kinh sống tập trung theo các trục giao thông chính như đường huyện 21 và các khu dân cư, sông rạch. Các bộ phận dân cư sinh sống trên địa bàn xã từ lâu đã có quá trình chung lưng đấu cật, đoàn kết, thương yêu và giúp đỡ lẫn nhau.
Về tín ngưỡng và tôn giáo, đại đa số có tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên và tín ngưỡng dân gian gắn với lễ nghi nông nghiệp (như cúng đình, cúng miễu, cúng ao, cúng việc lề…), cùng phong tục gắn liền với đời người (như hôn nhân, tang tế...) và lễ thức mang tính tập tục cổ truyền (như Tết Nguyên Đán, Mồng 5 tháng 5, Rằm tháng Bảy, Trung Thu...) được lưu giữ, hun đúc và nâng niu trong quá trình khai mở đất đai, chinh phục thiên nhiên, chống thực dân phong kiến áp bức, nay tiếp tục phát huy vào đời sống văn hóa mới đương đại trong công cuộc xây dựng cuộc sống văn minh. Tôn giáo ở Phước Tuy chủ yếu là đạo Cao Đài, chiếm khoảng 4 % dân số. Ngoài ra còn có Phật giáo và Thiên Chúa giáo nhưng số lượng không đáng kể. Tôn giáo ở Phước Tuy không những đáp ứng nhu cầu tinh thần cộng đồng mà còn có nhiều đóng góp trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, và dù với đời sống tâm linh nào cũng đều thương yêu đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau trong tình làng nghĩa xóm, phát huy tinh thần tu tiến, đại đoàn kết dân tộc, sống tốt đời đẹp đạo, tiếp tục cống hiến vào sự nghiệp mới ở địa phương.
Về nhân lực, lao động trong độ tuổi là 5.039 người (chiếm 54% dân số), trong đó tập trung chủ yếu cho khu vực nông nghiệp (42%), số còn lại là thương mại - dịch vụ - vận tải (23%), công nghiệp xây dựng (34%). Có thể thấy, lao động trong độ tuổi của xã chiếm tỉ lệ trung bình và chất lượng còn thấp, chủ yếu là lao động phổ thông chưa qua đào tạo. Một bộ phận nhỏ lao động có chuyên môn kỹ thuật và quản lý tập trung chủ yếu ở khu vực công như quản lý nhà nước, giáo dục, y tế. Trong tương lai, vấn đề này sẽ được cải thiện với việc địa phương đẩy mạnh tốc độ đào tạo lao động để đạt mức độ lao động qua đào tạo đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới. Mặt khác, người dân Phước Tuy có phẩm chất lao động cần cù, khiêm tốn, học tập, được tiếp sức bởi truyền thống lịch sử kiên cường trong đấu tranh cách mạng, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương sẽ là những nhân tố con người quan trọng góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Với đặc điểm về địa lý và tự nhiên, kinh tế và xã hội, Phước Tuy có nhiều lợi thế và tiềm năng trong quá trình xây dựng và phát triển địa phương. Địa bàn cạnh thị trấn Cần Đước - trung tâm chính trị, kinh tế, văn hóa của huyện trong vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh và phía Nam, Phước Tuy có cơ hội đón nhận những chính sách ưu đãi và hưởng lợi từ chiến lược phát triển Nam Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh như thu hút đầu tư, lan tỏa công nghiệp..., là điều kiện mở ra khả năng tìm kiếm việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Địa hình bằng phẳng, chất lượng đất tương đối tốt, việc quy hoạch sử dụng đất sản xuất phù hợp với kế hoạch chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cây trồng vật nuôi là điều kiện quan trọng để phát triển kinh tế nông nghiệp, nhất là hình thành các vùng chuyên canh sản xuất theo hướng hàng hóa nông sản với các loại cây có giá trị kinh tế cao, đáp ứng yêu cầu thị trường và thuận lợi cho việc xây dựng các công trình phát triển kinh tế, khu kinh doanh, dịch vụ. Sông Vàm Cỏ ở phía Tây thuận lợi để phát triển các loại hình kinh tế thương mại - dịch vụ. Tuy nhiên, tài nguyên thiên nhiên nghèo nàn, tích lũy từ nội bộ kinh tế địa phương chưa có chiều sâu, kết cấu hạ tầng chưa đồng bộ để đáp ứng yêu cầu phát triển làm hạn chế việc thu hút các nguồn lực; chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, lao động thiếu việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra khá nhanh nhưng có phần chưa hợp lý; tiểu thủ công nghiệp và thương mại - dịch vụ chưa hỗ trợ tích cực cho phát triển nông nghiệp trong khi nền kinh tế chủ yếu còn thuần nông... là những cản ngại của sự phát triển.
Những vấn đề trên là cơ sở để địa phương đề ra quan điểm và nhiệm vụ phát triển vừa có tính chiến lược lâu dài vừa có tính đột phá trong việc khai thác tiềm năng và lợi thế, khắc phục hạn chế, gắn phát triển kinh tế - xã hội với quốc phòng - an ninh, tăng trưởng kinh tế đi đôi với chăm lo đời sống vật chất tinh thần cho người lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực và hiệu quả, nhất là trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn, nâng cao mặt bằng dân trí và nguồn lao động có tay nghề, mở rộng sản xuất đi đôi với bảo vệ và gìn giữ môi trường sinh thái… Tất cả hướng đến xây dựng Phước Tuy trở thành xã nông thôn mới, một địa bàn có vị trí quan trọng về nông nghiệp ở huyện Cần Đước với kinh tế phát triển bền vững, có các hình thức sản xuất phù hợp, có hạ tầng kinh tế, xã hội hiện đại, đời sống vật chất được nâng cao, giàu bản sắc văn hóa và hệ thống chính trị vững mạnh.
3. Vài nét về tiến trình lịch sử, hành chính, kinh tế-xã hội, truyền thống yêu nước và đấu tranh cách mạng qua các thời kỳ
Về mặt khoa học dù chưa thể xác định chính xác thời điểm và thời gian cụ thể của các nhóm di dân người Việt đầu tiên đến vùng đất này, nhưng dựa vào sự xác lập tổ chức hành chính của người Việt Nam Bộ (1698) (1) cũng như tư liệu về tôn giáo (2), những địa danh mang đậm dấu ấn thời khẩn hoang như Vàm Bến Trễ, Gò Hóc Thủ, Bến đò Giữa, Bến đò Xã Bảy, Cầu Bà Mười Đạo, Kinh Xóm Bồ, Cầu Hàn, Cầu Chủ Thơ... cho phép đoán định rằng vùng đất này bắt đầu được khai phá từ rất sớm trong thời gian từ cuối kỷ XVII đến đầu thế kỷ XVIII, cụ thể là 1698 đến 1747, lúc bấy giờ thuộc tổng Phước Lộc, huyện Phước Long, dinh Trấn Biên, phủ Gia Định. Tuy nhiên, do khả năng vật chất - kỹ thuật hạn chế trong điều kiện thiên nhiên không thuận lợi nên việc khai phá vào thời điểm này diễn ra còn chậm.
Cuộc chiến với Tây Sơn đã thúc đẩy tập đoàn phong kiến Đàng Trong từ 1779 - 1790 thực hiện nhiều công việc phát triển sản xuất nông nghiệp như vẽ địa đồ, phân chia địa giới hành chính, phân loại ruộng đất, “ngụ binh ư nông”, đặt “sở đồn điền”, đặt chức quan lo về nông nghiệp, “lệnh cho các đội túc trực và các vệ thuyền dinh trung quân ra vỡ ruộng..., cấp cho trâu bò, điền khí và thóc, ngô, đậu giống” ..., đã góp phần đẩy nhanh tiến trình khai phá vùng đất này.
Triều Nguyễn được xác lập (1802), rồi đổi Gia Định trấn thành Gia Định thành (gồm 4 dinh và 1 trấn), nâng tổng Phước Lộc lên thành huyện, đặt thêm tổng mới là Phước Điền và Lộc Thành (1808), vùng đất Phước Tuy lúc ấy thuộc tổng Phước Điền, huyện Phước Lộc. Việc tổ chức phân chia lại địa giới hành chính phản ánh dân số ở đây gia tăng, kinh tế phát triển với khung cảnh bấy giờ là “hai bên là ruộng nương, bờ ruộng ngang dọc cắt nhau”.
Đến thời vua Minh Mạng, sau khi Gia Định được bãi bỏ, lập 6 tỉnh (1832) và Trương Đăng Quế cùng Trương Minh Giảng tiến hành đo đạc ruộng đất, lập sổ địa bạ ở Nam Kỳ (1836), Phước Tuy bấy giờ thuộc tổng Phước Điền Thượng, huyện Phước Lộc (lúc này có 4 tổng) thuộc phủ Tân An, tỉnh Gia Định, với thành quả khai phá đất đai đáng kể của các thế hệ tiền nhân trên vùng đất này sau gần hai thế kỷ khai hoang mở đất (1).
Thực dân Pháp xâm lược (1858) mở ra thời kỳ nhiều biến động với việc chia tách, lập thêm nhiều tổng mới. Trong bối cảnh ấy, huyện Phước Lộc có thêm hai tổng mới là Phước Điền Hạ và Lộc Thành Hạ. Ở Phước Tuy, một phần thôn Phước Tường nhập vào Phước Khánh, phần còn lại lập ra thôn Phước Chỉ và Phước Điền để rồi đến khi Pháp xóa ranh hành chính cũ của Nam triều, chia 6 tỉnh Nam Kỳ thành 27 arrondissements (dịch là “sở tham biện” hay “hạt”) vào ngày 5-6-1867), thì ba làng trên sát nhập thành Phước Tuy, thuộc tổng Lộc Thành Hạ, sở tham biện Phước Lộc-1/7 sở tham biện của Gia Định.
Sau khi Pháp lập chế độ tỉnh trưởng (20-12-1899), năm 1909, tỉnh Chợ Lớn được thành lập với 4 đại lý (delegation), gồm Cần Giuộc (luôn cả Cần Đước ngày nay), Chợ Lớn, Đức Hòa và Trung Quận, đến năm 1923, thì lập thêm sở đại lý Rạch Kiến (Delegation de Rach Kien) gồm ba tổng Lộc Thành Thượng, Lộc Thành Trung và Lộc Thành Hạ. Năm 1928, sở đại lý Rạch Kiến dời về Cần Đước và đổi thành sở đại lý Cần Đước (sau gọi là quận), lỵ sở đặt tại làng Tân Ân (thị trấn Cần Đước ngày nay). Phước Tuy thuộc tổng Lộc Thành Hạ, quận Cần Đước cho đến Cách mạng tháng Tám 1945 (2).
Thực dân Pháp với con mắt thị trường chóng thực hiện nhiều chính sách như can thiệp sâu hơn vào bộ máy chính quyền cơ sở làng, xã(3), bóc lột lao động, vơ vét tài nguyên, nông sản ở thuộc địa, thực hiện các qui định về thuế(1), các sắc lệnh về nông nghiệp (sắc lệnh tháng 7-1888, sắc lệnh 18-8-1896, nghị định ngày 18-9-1926, sắc luật tháng 11-1928) đưa đến tình trạng cướp đoạt và hình thành chế độ sở hữu ruộng đất tập trung vào tay địa chủ với phương thức khai thác theo kiểu phong kiến, cũ kỹ, bóc lột tá điền, năng suất thấp ở những thập niên đầu thế kỷ XX. Về văn hóa - xã hội, nền giáo dục chỉ đào tạo một thiểu số người thuộc tầng lớp trên để phục vụ chế độ thuộc địa nên suốt thời thuộc Pháp, ở đây không có cơ sở giáo dục nào.
Chính sách chuyên chế về chính trị, độc quyền và bóc lột về kinh tế, đầu độc và ngu dân về văn hóa - giáo dục của thực dân đã làm cho mâu thuẫn xã hội hình thành và sự phân hóa ngày càng trở nên gay gắt giữa một bên là nhân dân lao động và một bên là thực dân và địa chủ phong kiến. Đó là cơ sở kinh tế - xã hội và là nguyên nhân sâu xa làm nền cho phong trào dân tộc và dân chủ nhân dân, để khi Đảng ra đời và lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, nhân dân Phước Tuy sớm đi theo con đường Cộng sản.
Ngay từ những ngày đầu chống thực dân Pháp xâm lược, nhân dân Phước Tuy đã khởi đầu truyền thống đánh giặc giữ nước trong phong trào Nguyễn Trung Trực (2), rồi sau đó tiếp tục dưới sự chỉ huy của ông Thống Sô (Nguyễn Thuyết Xã), Bà Hớn, Bà Hở... Từ khi có Đảng, nơi đây sớm gieo mầm Cộng sản với chi bộ đầu tiên ra đời từ giữa năm 1930, gồm 7 đảng viên, do đồng chí Lê Văn Phát (Năm Bè) làm bí thư, lãnh đạo nhân dân bước sang giai đoạn mới, để rồi từ Nam Kỳ khởi nghĩa (1940) đến những ngày cách mạng mạng mùa Thu 1945, lớp lớp quần chúng nhân dân hừng hực khí thế nổi dậy, hòa vào cơn bão táp cách mạng của cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
Thực dân Pháp tái xâm lược sau Cách mạng tháng 8-1945 nên những năm 1945 - 1954 có hai chính quyền song song quản lý. Phía địch, Phước Tuy vẫn thuộc tổng Lộc Thành Hạ, quận Cần Đước, tỉnh Chợ Lớn, nhưng phía ta thuộc huyện Cần Đước, tỉnh Chợ Lớn, thuộc Quân khu 7 (3), từ giữa 1951, thuộc Liên Huyện, tỉnh Bà Rịa - Chợ Lớn, thuộc Phân liên khu miền Đông, đến sau Hiệp định Giơ-ne-vơ (1954) thì phục hồi lại như cũ (4). Dù bị địch tạm chiếm, nhân dân Phước Tuy dưới sự lãnh đạo của Đảng không ngừng phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng, hòan thành sứ mạng lịch sử của mình, đóng góp xứng đáng sức người, sức của vào thành công của cuộc kháng chiến chín năm ở địa phương.
Sau khi chính quyền Ngô Đình Diệm lập tỉnh Long An (1), từ năm 1957, Phước Tuy thuộc tổng Lộc Thành Hạ, quận Cần Đước (2), tỉnh Long An và sau năm 1975 thì thuộc huyện Cần Đước cho đến ngày nay.
Trong suốt cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ gian khổ và hào hùng, nhân dân Phước Tuy dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ địa phương không ngừng phát huy truyền thống yêu nước và cách mạng trên “Vành đai diệt Mỹ Rạch Kiến” lừng danh, lần lượt vượt qua những thủ đoạn, âm mưu thâm độc về chiến tranh của địch, từ những ngày đầu chống “tố cộng - diệt cộng” đến vùng lên đồng khởi, phá ấp chiến lược, tham gia chiến dịch Mậu Thân, chống bình định, tham gia chiến dịch Hồ Chí Minh giải phóng quê hương, đã xuất sắc phòng gian bảo mật, xây dựng lõm căn cứ, bảo vệ an toàn các cơ quan cấp trên, là nơi dừng chân, trú quân, làm bàn đạp tiến đánh địch của nhiều đơn vị bộ đội như C315, tiểu đoàn 1, 2 Long An, tiểu đoàn 520 Bến Tre..., tập trung mọi nỗ lực, đóng góp sức người, sức của cho cách mạng, nhiệt tình tham gia phong trào tòng quân nhập ngũ, dân công hỏa tuyến, chuyển lương tải đạn, cung cấp thực phẩm, lương thực cho các lực lượng vũ trang cách mạng chiến đấu, hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình, đóng góp xứng đáng vào thắng lợi chung.
Đảng bộ và nhân dân Phước Tuy đã đổi bằng hàng trăm người hy sinh tính mạng hoặc một phần thân thể cho ngày chiến thắng, trong đó có 327 liệt sĩ, 28 thương binh, hàng trăm gia đình có công, có 23 bà mẹ Việt Nam anh hùng, cá nhân và tập thể được tặng thưởng 327 huân huy chương các loại và nhiều chiến công oanh liệt đi vào lịch sử địa phương. Năm 2000, xã được phong danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Nhìn lại suốt chiều dài lịch sử, từ khi ông cha ta đến đây trong dòng chảy Nam tiến, trải qua các thời kỳ lịch sử, để có được thành quả hôm nay và đang bước tiếp trên chặng đường mới là một tiến trình của sự kết tinh từ mồ hôi, xương máu, trí tuệ của nhiều thế hệ. Dù bị kìm hãm bởi trình độ kỹ thuật thấp kém và thiết chế xã hội lạc hậu thời phong kiến, nhân dân Phước Tuy đã nỗ lực không ngừng và đạt được những thành quả lớn lao, tạo dựng trên vùng đất vốn hoang vu này thành một không gian sống với những sinh hoạt kinh tế, văn hóa và xã hội thống nhất với truyền thống dân tộc. Những phẩm giá ấy góp phần nuôi dưỡng cho cuộc đấu tranh vì độc lập tự do khi Đảng ra đời và lãnh đạo cách mạng. Nhân dân Phước Tuy hoàn toàn có thể vinh dự và tự hào khi sống trên mảnh đất có bề dày lịch sử của người Việt với hàng trăm năm khai phá và tạo lập cơ đồ trong thời đại Hồ Chí Minh. Những trang vàng truyền thống đổi bằng sự hy sinh của thế hệ thời kỳ đấu tranh cách mạng là hành trang đầy tự hào để Đảng bộ và nhân dân Phước Tuy vững bước tiến lên trên con đường tạo dựng những kỳ tích mới.
(2) Có thời gian, quận Cần Đước được đổi thành Cần Đức (Nghị định số 131-TTP/VP, ngày 7-2-1963 của Tổng thống VNCH) nhưng Phước Tuy thuộc địa danh hành chính mới này không lâu vì sau khi Ngô Đình Diệm bị đảo chánh (1-11-1963), tên cũ Cần Đước được phục hồi.
*
* *
CHƯƠNG MỘT
KHẮC PHỤC HẬU QUẢ CHIẾN TRANH,
CẢI TẠO XÃ HỘI CHỦ NGHĨA, PHÁT TRIỂN KINH TẾ - XÃ HỘI (1975 - 1985)
1. Tình hình và nhiệm vụ mới
Ngày 30-4-1975 lịch sử đánh dấu bước ngoặt vĩ đại, kết thúc cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đồng thời mở đầu một thời kỳ mới đối với Phước Tuy cũng như nhiều địa phương khác trong toàn huyện, toàn tỉnh và toàn miền Nam: thời kỳ độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc và chuyển sang tiến hành sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa trên phạm vi toàn quốc.
Sau các hoạt động mừng thắng lợi trong không khí phấn khởi, hân hoan, cùng với nhân dân trong toàn huyện và cả nước nói chung, Phước Tuy bước vào thời kỳ mới trong bối cảnh có nhiều thuận lợi cơ bản, song cũng không ít khó khăn phức tạp của tình hình sau ngày giải phóng.
Qua hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, cán bộ, đảng viên trưởng thành, kiên định hơn về lập trường cách mạng, có bản lĩnh vượt qua khó khăn, đồng thời có mối quan hệ gắn bó với nhân dân và tạo được niềm tin của nhân dân từ trong đấu tranh cách mạng. Sau giải phóng, xã có 8.021 nhân khẩu, các giá trị truyền thống như tinh thần yêu nước và lao động cần cù, sáng tạo trong lao động của nhân dân nay được tiếp thêm sức mạnh từ niềm tự hào, hân hoan của chiến thắng vĩ đại và nhiệt tình cách mạng cùng tinh thần sẵn sàng cống hiến với quyết tâm xây dựng lại cuộc sống mới, xã hội mới, xây dựng lại quê hương, làng xóm sau bao nhiêu năm chiến tranh, mất mát và hy sinh.
Bên cạnh thuận lợi cơ bản ấy, những khó khăn trên nhiều mặt, nhất là về kinh tế - xã hội, an ninh - chính trị là những thử thách đặt ra cho xã phải khẩn trương giải quyết.
Về kinh tế - đời sống, sản xuất nông nghiệp còn là sản xuất nhỏ, cá thể, lạc hậu. Phần lớn nhà cửa, ruộng vườn, đất đai, đường sá, cầu cống ít nhiều bị bom đạn, chất độc hóa học tàn phá nặng nề, nhiều nơi trong tình trạng hoang hóa do nhân dân tản cư vào đô thị. Đất đai nhiễm phèn, nhiễm mặn suốt bao nhiêu năm chưa hề được cải tạo, trong khi lao động chủ yếu là thủ công, năng suất các loại cây trồng đều thấp. Nói chung, xã bắt đầu xây dựng kinh tế với xuất phát từ nền sản xuất nhỏ, cơ sở vật chất - kỹ thuật nghèo nàn, lạc hậu. Đại bộ phận nhân dân có đời sống thấp.
Về an ninh chính trị và xã hội, 30 năm chiến tranh để lại nhiều hậu quả nặng nề, bên cạnh nạn thất nghiệp vốn có từ chế độ cũ là tàn dư văn hóa độc hại và nạn mù chữ (1), đã tác động nghiêm trọng lên nhiều mặt của đời sống xã hội. Nhân viên chính quyền cơ sở và ngụy quân tan rã tại chỗ (1), một số còn chưa ra trình diện là vấn đề phức tạp cần giải quyết nhanh chóng.
Bộ máy chính quyền cách mạng, tổ chức cơ sở Đảng qua cuộc kháng chiến chống Mỹ bị tổn thất nặng nề, nay chưa kịp củng cố, tình hình cán bộ nói chung còn thiếu, trong khi đó lại phải thực hiện nhiệm vụ cách mạng mới với yêu cầu hoàn toàn mới mẻ so với thời chiến mà chưa hề có kinh nghiệm gì về quản lý xã hội, quản lý kinh tế - đời sống và các lĩnh vực khác trong thời bình. Sự tham gia cống hiến cho công việc lúc này của đội ngũ cán bộ xã chủ yếu là từ lòng nhiệt tình cách mạng.
Trong bối cảnh và tình hình ấy, nhiệm vụ trước mắt của xã sau ngày giải phóng là nhanh chóng xây dựng hệ thống chính quyền cách mạng song song với tổ chức cho ngụy quân, ngụy quyền trình diện, truy quét tàn quân, trấn áp bọn phản cách mạng, ổn định an ninh chính trị, trật tự xã hội, tăng cường cảnh giác, xây dựng lực lượng công an, du kích và các tổ chức quần chúng, tăng cường sự lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức Đảng, ra sức khôi phục sản xuất, ổn định đời sống nhân dân.
Để vượt qua khó khăn thử thách đó, chi bộ, chính quyền và nhân dân Phước Tuy phải khai thác và phát huy các yếu tố thuận lợi để khắc phục hậu quả chiến tranh, xây dựng cuộc sống mới. Với truyền thống đấu tranh kiên cường trong kháng chiến, cần cù trong lao động, có nhân lực và tài nguyên đất, tài nguyên nước sẵn sàng cho việc trồng lúa, hoa màu, nuôi trồng thủy sản, Phước Tuy nhanh chóng bước vào nhiệm vụ mới ngay sau ngày giải phóng, với quyết tâm viết tiếp trang sử của địa phương trong thời kỳ mới.
2. Tiếp quản, giữ gìn an ninh chính trị, ổn định đời sống nhân dân (1975 - 1976)
Ngay sau ngày 30-4-1975, xã nhanh chóng bắt tay vào nhiệm vụ tiếp quản và bảo vệ thành quả cách mạng. Huyện ủy Cần Đước chỉ đạo đồng chí Nguyễn Văn A (Ba A) làm Bí thư chi bộ xã để lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ trước mắt như thu gom vũ khí, tuyển chọn thanh niên vào lực lượng du kích, công an để bảo vệ chính quyền cách mạng, kêu gọi, vận động, và tuyên truyền ngụy quân, ngụy quyền ra trình diện. Nhiều đội tự vệ, lực lượng dân quân, tổ chức đoàn thể quần chúng được thành lập để tổ chức vận động, tuyên truyền rộng rãi chính sách khoan hồng của Đảng và Nhà nước, ổn định trật tự trị an trên địa bàn, góp phần hoàn thành nhiệm vụ này của huyện (2).
Ngày 15-5-1975, đông đảo nhân dân Phước Tuy cùng với toàn huyện tham dự buổi lễ ra mắt của Ủy ban Quân quản huyện Cần Đước tại ấp 1, xã Phước Đông. Nhân dân phấn khởi nghe đại diện chính quyền cách mạng nói về chiến thắng và nhiệm vụ của của địa phương trong thời gian tới với không khí vui mừng và niềm tin tưởng sâu sắc vào cách mạng. Ấn tượng tốt đẹp của ngày mừng chiến thắng còn đọng lại trong nhân dân trong suốt thời gian sau đó. Ngay sau sự kiện trên, Ủy ban quân quản xã được thành lập theo sự chỉ định của huyện, do đồng chí Nguyễn Thị The (Bảy The) làm Chủ tịch.
Ủy ban quân quản xã nhanh chóng đi vào thực hiện các nhiệm vụ trước mắt theo chỉ đạo của Đảng bộ huyện Cần Đước về việc quán triệt các nội dung theo tinh thần Nghị quyết 14 và 26 của Trung ương Cục miền Nam, Nghị quyết 254 của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng. Xã còn được cụ thể hóa nhiệm vụ cấp bách do tỉnh đề ra để tháo gỡ khó khăn và lúng túng trước những vấn đề mới mẻ trong quản lý xã hội thời bình, như: xây dựng hệ thống chính quyền cách mạng, khôi phục sản xuất, ổn định đời sống quần chúng, truy quét địch, cải tạo các phần tử ngụy quân, ngụy quyền, nhanh chóng đảm bảo an ninh chính trị và trật tự xã hội, tăng cường cảnh giác, ra sức xây dựng lực lượng an ninh, quốc phòng, đẩy mạnh công tác dân vận, tăng cường sự lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, bố trí lại lực lượng, tăng cường cơ sở (1). Tiếp đó, theo chỉ đạo của Đảng bộ huyện, xã tập trung vào một số nhiệm vụ trọng tâm như: củng cố hệ thống chính quyền cách mạng xã, ấp, các đội tự vệ, lực lượng dân quân, du kích, các đoàn thể quần chúng..., tiếp tục tổ chức vận động, tuyên truyền rộng rãi chính sách khoan hồng của cách mạng, đồng thời khẩn trương truy quét bọn tàn quân ngoan cố, giữ vững trật tự trị an, tuyên truyền rộng rãi “Chính sách mười điểm” của Chính phủ cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam với những nội dung trọng tâm(2). Nhờ vậy, đến đợt trình diện lần thứ hai ở huyện vào cuối tháng 5-1975(3) và sau đó đợt ba (phát động ngày 18-6-1975), xã hoàn thành việc tổ chức cho ngụy quân, ngụy quyền ra trình diện, mở lớp học tập cải huấn tại chỗ từ 3 đến 5 ngày đối với cấp bậc trung sĩ trở xuống, đưa các đối tượng từ trung sĩ trở lên về trên.
Khắc phục tình hình thiếu cán bộ để xây dựng bộ máy chính quyền, sau đợt bồi dưỡng cấp tốc cán bộ huyện(4), cán bộ chủ chốt xã cũng được trang bị những vấn đề cơ bản về quản lý ở cơ sở. Đoàn thể, hội viên quần chúng bắt đầu được hình thành cùng với việc tuyên truyền, giáo dục lý tưởng Cộng sản chủ nghĩa và lập trường giai cấp công - nông, bồi dưỡng ý chí chiến đấu, xác định lý tưởng trung thành với Đảng và sự nghiệp cách mạng cho cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân.
Triệt tiêu tàn dư văn hóa độc hại và những tệ nạn xã hội khác bên cạnh với xây dựng cuộc sống mới, con người mới, xây dựng nền văn hóa cách mạng được xác định là trong những nhiệm vụ vừa lâu dài vừa có tính cấp bách. Trừ một thiểu số còn tàng trữ sách truyện cũ như truyện Tàu, sách bói toán..., hầu hết sách báo, văn hóa phẩm độc hại đều được nhân dân tự nguyện tiêu hủy hoặc giao nộp cho chính quyền. Những hình ảnh, khẩu hiệu không còn phù hợp đều được tháo gỡ để thay vào đó là các nội dung thông tin tuyên truyền, kỷ niệm các ngày lễ lớn, đặc biệt là kỷ niệm sinh nhật Bác, Quốc khánh 2-9 ... Hoạt động văn hóa văn nghệ quần chúng, sinh hoạt thiếu nhi với đề tài cách mạng diễn ra khá sôi nổi. Nhân dân được kịp thời cung cấp tin tức thời sự và chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đến từng gia đình, từng người dân qua hệ thống loa truyền thanh. Phim ảnh về đề tài chiến tranh cách mạng, về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, về Chủ tịch Hồ Chí Minh... lần đầu tiên đến với nhân dân qua hoạt động chiếu bóng lưu động, đã góp phần cung cấp những tri thức mới, nhận thức mới về cuộc kháng chiến vừa qua nói riêng, về cách mạng dân tộc dân chủ của dân tộc ta nói chung, vừa nâng cao đời sống tinh thần và nhận thức về chủ trương, đường lối chính sách của Đảng và chính quyền cách mạng cho nhân dân địa phương.
Khôi phục hoạt động giáo dục cũng là một trong những nhiệm vụ hàng đầu trong thời gian này. Dù điều kiện cơ sở vật chất rất khó khăn, chưa thể giải quyết hết nhu cầu học tập của người dân trên địa bàn nhưng nhờ huyện kịp thời quan tâm và nhiệt tình của lực lượng giáo viên lưu dụng, bốn tháng sau ngày miền Nam giải phóng, ngày 5-9-1975, năm học mới đầu tiên của thầy trò ở Phước Tuy dưới nền giáo dục cách mạng được khai giảng, bước đầu đi vào nề nếp.
Tháng 11-1975, Ủy ban nhân dân cách mạng ra đời thay thế Ủy ban quân quản xã đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử lúc giao thời, do đồng chí Nguyễn Thị The làm Chủ tịch, đi vào điều hành thực hiện nhiệm vụ hàn gắn vết thương chiến tranh, ổn định đời sống, phát triển kinh tế-xã hội và xây dựng bộ máy chuyên chính vô sản ở địa phương.
Trong điều kiện cán bộ đảng viên còn ít, khó khăn còn phức tạp, xã dựa vào cơ sở cách mạng và nòng cốt trong dân để xây dựng bộ máy, trong đó hết sức chú trọng đến việc củng cố và phát triển lực lượng công an và lực lượng du kích xã. Sau các bước củng cố về cơ bản bộ máy Đảng, chính quyền và quân sự, an ninh để bảo vệ Đảng và thành quả cách mạng, xã còn nỗ lực phát triển các tổ chức đoàn thể để kiện toàn bộ máy. Với tinh thần phấn khởi sau ngày giải phóng, nhiều người đã nô nức gia nhập các tổ chức đoàn thể, hăng hái tham gia các hoạt động phong trào, hoạt động xây dựng đời sống mới. Nhiều bộ phận hình thành đến các ấp để quản lý xã hội trên địa bàn. Nhờ đó, việc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục sản xuất, khai hoang phục hóa, tháo gỡ bom, mìn, thu gom vũ khí địch, kêu gọi nhân dân trở về quê làm ăn, trấn áp bọn phản động cách mạng, bảo đảm an ninh chính trị và trật tự xã hội, tổ chức giải quyết vấn đề ngụy quân ngụy quyền ở địa phương, tòng quân nhập ngũ… được thực hiện có hiệu quả. Thời gian này, xã có nhiều nỗ lực trong việc bồi dưỡng kết nạp đảng viên mới, tổ chức sinh hoạt chính trị nhằm tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, góp phần đấu tranh chống tư tưởng mệt mỏi, xả hơi, nghỉ ngơi, ngủ quên trên chiến thắng, củng cố nhận thức về cách mạng xã hội chủ nghĩa cho cán bộ, đảng viên và trong quần chúng nhân dân.
Thực hiện chỉ đạo của Huyện ủy theo tinh thần của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về các nhiệm vụ trọng tâm(1), Ủy ban nhân dân cách mạng xã bước đầu thực hiện có hiệu quả chức năng quản lý hành chính, quản lý kinh tế - xã hội qua việc đề ra các giải pháp cụ thể về xây dựng kinh tế và ổn định đời sống nhân dân như: vận động nhân dân hồi hương khôi phục sản xuất, nhường cơm xẻ áo, cấp đất cho người lao động không có ruộng canh tác, chăm lo gia đình chính sách, thu xếp công việc cho người thất nghiệp, tiến hành các biện pháp khai hoang phục hóa, thâm canh tăng vụ, làm thủy lợi... Những nỗ lực đó bước đầu góp phần lớn đưa diện tích đất nông nghiệp, đất hoang ở xã vào sản xuất lúa một vụ và hai vụ, giải quyết được khâu lương thực cho gia đình nghèo, đảm bảo đủ ăn, ngừa đói ở địa phương, từng bước đáp ứng nhiệm vụ huyện giao về cân đối lương thực. Về thương nghiệp, các hoạt động nhận hàng ở huyện đưa về phân phối ở xã bắt đầu được tiến hành, bước đầu đáp ứng nhu yếu phẩm, góp phần ổn định đời sống nhân dân.
Cùng với toàn huyện, phong trào làm thủy lợi khá nổi bật trong thời gian này. Xã thành lập Ban chỉ đạo công trường(2) để tổ chức phát động dân công tham gia các chiến dịch và phong trào. Lực lượng lao động xã hội chủ nghĩa được hình thành gồm 3 tuyến: tỉnh, huyện, xã. Đến cuối năm 1976, xã đào được 1 con kênh và đắp 1 bờ đê ngăn mặn (dài 1.586m, mặt kinh là 5,5m, đáy 2,5m và sâu 1,2 m), huy động 500 lao động trực tiếp thi công hòan thành đập Trợ Ngô (đập 2-9) ở ấp 7. Ngoài làm thủy lợi, khai hoang phục hóa ở địa phương, xã còn lãnh đạo nhân dân tham gia và đóng góp hiệu quả vào nhiệm vụ chính trị của toàn huyện lúc bấy giờ là đắp đập Cầu Chùa - một công trình thủy lợi lịch sử của huyện sau ngày giải phóng và sau đó là công trình cống Xóm Lũy ở xã Tân Lân và Phước Đông(3).
Về văn hóa-xã hội, sau khi trường phổ thông được tổ chức và đi vào hoạt động, xã triển khai thực hiện công tác xóa nạn mù chữ và bổ túc văn hóa cho gia đình cán bộ, chính sách, chiến sĩ và nhân dân lao động theo tinh thần Chỉ thị 221/CTTW ngày 17-6-1975 của Ban bí thư Trung ương Đảng và Thông tri 14/TT của Thường vụ Trung ương Cục. Nhiều điểm lớp bổ túc văn hóa được mở ra(4), dù điều kiện cơ sở vật chất còn khó khăn, phải mượn nhà dân và cơ sở tôn giáo làm nơi học tập nhưng nhờ tinh thần nhiệt tình của lực lượng giáo viên lưu dụng được quán triệt tinh thần mới xã hội chủ nghĩa, nhân dân trong xã được thụ hưởng nền giáo dục cách mạng mà trước đây chưa có được, nhất là những ấp vùng sâu, vùng kháng chiến. Ngoài được phân phối thuốc của ban y tế xã, nhân dân còn được đội y tế lưu động của huyện thường xuyên về tổ chức tiêm phòng, khám chữa bệnh, tuyên truyền vệ sinh phòng bệnh, phòng dịch, ý thức về ăn ở vệ sinh... Gia đình thương binh liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng được quan tâm, động viên thăm hỏi kịp thời. Công tác tập hợp số liệu, xác nhận hồ sơ thương binh liệt sĩ bắt đầu được tiến hành.
Đi đôi với việc chăm lo tổ chức lại sản xuất, ổn định đời sống nhân dân, xã hết sức chú trọng đến công tác an ninh - quốc phòng. Từ đầu năm 1976, thực hiện chỉ đạo của Đảng bộ huyện, chủ trương của Tỉnh ủy Long An theo tinh thần Chỉ thị 13-CT-76 của Trung ương về tiếp tục đẩy mạnh phong trào toàn dân truy quét địch liên tục và đều khắp, xã phát động phong trào quần chúng kết hợp cùng quân sự và công an thực hiện triệt để, đến cuối năm 1976, cơ bản bãi bỏ việc quản chế cho các đối tượng ngụy quân, ngụy quyền (1).
Xác định giữ gìn an ninh chính trị, trật tự xã hội và bảo vệ thành quả cách mạng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu song song với xây dựng chính quyền, khôi phục sản xuất, phát triển kinh tế, ổn định đời sống nhân dân, bên cạnh củng cố lực lượng du kích và công an đủ mạnh, sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự, an toàn xã hội, sẵn sàng chiến đấu, truy quét bọn phản động, xã phát động thanh niên đăng ký tạo nguồn bổ sung lực lượng trẻ cho quân đội làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc và xây dựng kinh tế (2), mà các gia đình cách mạng, gia đình chính sách là đối tượng đi đầu, gương mẫu trong thời gian nhạy cảm này. Xã còn thường xuyên tổ chức học tập trong nội bộ và ra dân về nhiệm vụ quốc phòng an - ninh và tinh thần cảnh giác cách mạng nên nhìn chung, tình hình an ninh chính trị trên địa bàn xã trong thời gian này cơ bản ổn định.
Một sự kiện trọng đại cũng đã diễn ra trong năm 1976, đó là cuộc tổng tuyển cử bầu Quốc hội trên cả nước. Nhờ nỗ lực trong công tác tuyên truyền vận động và tổ chức thực hiện, ngày 24-4-1976, hầu hết nhân dân Phước Tuy đều nô nức đi bầu cử Quốc hội thống nhất khóa IV và là khóa đầu tiên sau ngày giải phóng, góp phần vào thành công chung của cuộc bầu cử này trên toàn huyện.
*
Sau hơn một năm (từ tháng 4-1975 đến cuối năm 1976) với những khó khăn chồng chất đặt ra một cách bức bách trong nhiệm vụ mới sau ngày giải phóng, chi bộ, chính quyền và nhân dân xã Phước Tuy từng bước vượt qua, giành được những kết quả ban đầu, trong đó nổi rõ lên ở các mặt: ổn định và giữ vững an ninh chính trị, trật tự xã hội; bộ máy nhà nước hình thành, từng bước được củng cố, đảm bảo nhiệm vụ trong thời gian này là hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục sản xuất và ổn định đời sống nhân dân. Đương nhiên, bên cạnh thành quả cách mạng trong khoảng thời gian ngắn ngủi ấy, những hạn chế cũng bắt đầu xuất hiện. Kinh nghiệm và tác phong trong việc quản lý hành chánh, quản lý kinh tế - xã hội, năng lực phối hợp giữa các cấp, các ngành và tình hình cán bộ vừa yếu vừa thiếu, cần phải đào tạo để đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới là những vấn đề cần phải cải thiện. Hậu quả chiến tranh còn ảnh hưởng nặng nề đến đời sống và sản xuất. Diện tích đồng ruộng bị nhiễm phèn, mặn còn nhiều, chưa có thời gian để kịp cải tạo, trong khi nguồn phân bón và hệ thống tưới tiêu chưa đáp ứng được nhu cầu. Hạ tầng nông thôn, nhất là giao thông, ở vùng sâu chưa được sửa sang tu bổ, ảnh hưởng đến giao thương và phát triển.
Dù đó là hạn chế thuộc về lịch sử, mang tính tất yếu do những nguyên nhân chủ quan và khách quan trong bối cảnh tình hình chính trị và kinh tế - xã hội lúc bấy giờ, nhưng tình hình trên đặt ra cho cấp ủy xã những nỗ lực mới để lãnh đạo mọi mặt và lĩnh vực ở địa phương trên cơ sở những biện pháp mới của Đảng bộ huyện về nhiệm vụ kinh tế - xã hội và nâng cao trình độ chính trị tư tưởng, củng cố tổ chức, gấp rút đào tạo bồi dưỡng cán bộ, thực hiện chế độ phân công và kiểm tra đôn đốc..., để đáp ứng tình hình nhiệm vụ đề ra trong giai đoạn mới.
3. Cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội (1977 - 1985)
3.1. Kiện toàn bộ máy chuyên chính vô sản, bước đầu cải tại nông nghiệp và công thương nghiệp (1977 - 1980)
Trong không khí toàn tỉnh hướng về Đại hội Đảng bộ tỉnh Long An lần thứ nhất (vòng II) và Đại hội toàn quốc lần thứ IV của Đảng, từ ngày 30-10 đến 2-11-1976, tại đình Tân Lân, xã Tân Lân, Đảng bộ huyện Cần Đước tổ chức đại hội Đảng bộ huyện lần đầu tiên, đề ra phương hướng và mục tiêu, lãnh đạo nhân dân địa phương bước vào thời kỳ mới, với nhiệm vụ đặt ra cho cấp ủy, chính quyền và nhân dân toàn huyện trong giai đoạn 1977- 1979 là: “Tiếp tục đẩy mạnh phong trào lao động sản xuất phát triển nông nghiệp một cách toàn diện, ra sức đẩy mạnh khai thác khả năng tiềm tàng về ngư nghiệp; phát triển tiểu thủ công nghiệp, công nghiệp, chế biến, sửa chữa cơ khí và sản xuất nông cụ nhằm từng bước cơ giới hóa nông nghiệp; phát triển giao thông vận tải, đẩy mạnh và cải tiến khâu lưu thông phân phối; phát triển giáo dục, văn hóa, y tế xã hội” (1), cùng một số công tác lớn được xác định trên lĩnh vực áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, cải tạo nông nghiệp, phân vùng qui hoạch, sử dụng lao động, xây dựng lực lượng an ninh - quân sự và tăng cường sự lãnh đạo của bộ máy chuyên chính vô sản.
Chi bộ, chính quyền và nhân dân xã Phước Tuy bước vào thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ huyện giai đọan 1977 - 1979 trong bối cảnh ở địa phương diễn ra nhiều sự kiện quan trọng. Từ tháng 4-1976, Đại hội chi bộ xã lần đầu tiên được tiến hành, do đồng chí Nguyễn Thị Bế làm Bí thư. Sang năm 1977, sau 12 ngày làm việc khẩn trương, nghiêm túc (từ ngày 12-4 đến 23-4-1977), Đại hội Đảng bộ tỉnh Long An lần thứ nhất (vòng II) thành công tốt đẹp. Ngày 15-5-1977, cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân cấp tỉnh, huyện, thị được tiến hành và được ấn định ở cấp xã vào ngày 19-6-1977. Nhân dân Phước Tuy nô nức đi bầu cử, góp phần vào thành công của cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân đầu tiên ở địa phương và trên toàn huyện Cần Đước. Sau bầu cử, Ủy ban nhân dân đầu tiên của xã được thành lập, gồm:
- Đồng chí Nguyễn Văn Xoài, Chủ tịch
- Đồng chí Phạm Văn Tuội, Phó chủ tịch
- Đồng chí Nguyễn Văn Nui, Ủy viên thư ký
- Đồng chí Phan Văn Hoe, Công an
- Đồng chí Nguyễn Văn On, Xã đội trưởng
Bộ máy chính quyền xã sau đó được kiện toàn thêm một bước với sự hình thành các ban chuyên trách từng mặt. Đến năm 1978, nhằm tinh gọn và tập trung theo tinh thần Quyết định của Hội đồng Chính phủ và Nghị quyết 4 của Tỉnh ủy Long An, bộ máy hành chính xã rút gọn từ 10 ban còn 5 ban, đồng thời với việc tăng cường đội ngũ cán bộ theo hướng có năng lực và được quần chúng tín nhiệm.
Năm 1977, nắng hạn kéo dài, sâu rầy phá hoại, rồi đến năm 1978, cơn lũ lụt lịch sử đã làm cho sản xuất nông nghiệp bị thiệt hại nghiêm trọng. Thêm vào đó, tình hình biên giới Tây Nam diễn biến ngày càng phức tạp, căng thẳng và sau đó đã dẫn đến chiến tranh biên giới, rồi những khó khăn về kinh tế - đời sống, đã tác động không thuận lợi đến sự phát triển kinh tế và tâm lý tình cảm của nhân dân và cả một bộ phận cán bộ, đảng viên. Tuy nhiên, được sự quan tâm sâu sát và kịp thời của Huyện ủy, xã tập trung cao độ, mở ra nhiều cuộc họp trong Đảng, trong nội bộ và quần chúng nhân dân để ổn định tư tưởng, với quyết tâm phát huy thành quả của hai năm đầu khắc phục hậu quả chiến tranh, nỗ lực hoàn thành nhiệm vụ chính trị đề ra trong giai đọan này.
Về kinh tế, thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ I Huyện Đảng bộ, kế hoạch của Ủy ban nhân huyện và các ban ngành, nhờ hệ thống thủy lợi được phát huy, diện tích lúa hai vụ tăng lên, nhân dân còn tận dụng đất đai thâm canh, trồng thêm các lọai cây rau, củ để nâng cao sản lượng và tăng nguồn lương thực, vừa để ổn định nhu cầu tại chỗ, đáp ứng một phần thức ăn cho gia súc và yêu cầu trao đổi, góp phần đảm bảo cân đối lương thực cho huyện. Để nâng cao năng suất trong điều kiện khó khăn về phân bón hóa học do trên cung cấp có hạn, xã phát động phong trào làm và tận dụng phân xanh, phân chuồng, vận động nhân dân ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật trong nông nghiệp, ngoại trừ một số nơi là ruộng sâu, nông dân còn giữ tập quán canh tác lúa mùa, đa số bà con đều theo phong trào làm lúa giống mới ngắn ngày kháng sâu rầy và cho năng suất cao. Sang năm 1978, thực hiện các chỉ tiêu phấn đấu trên lĩnh vực nông nghiệp, xã thành lập lực lượng xung kích thủy lợi, tổ chức thành đại đội với ban chỉ đạo thường xuyên có mặt tại công trường để tập trung cho công tác này(1), đã tăng cường ngăn mặn tháo chua, dẫn ngọt, tưới tiêu, cải tạo đất trên địa bàn. Nhờ những nỗ lực trên, diện tích lúa hai vụ tăng lên, năng suất đạt 3 tấn/ha (Hè Thu) và 2,3 tấn/ha (lúa mùa và Đông Xuân), góp phần nâng cao sản lượng lương thực, ổn định đời sống nhân dân và làm nghĩa vụ đối với Nhà nước. Tuy nhiên, diện tích gieo trồng của xã thời gian này vẫn còn thấp so với các nơi trong huyện.
Thời gian này xã còn góp sức hoàn thành các công trình lớn của huyện (như công trình thủy lợi 19-5 ở Tân Lân, Phước Đông) và đưa 293 thanh niên (2 đợt) đi tham gia xây dựng tuyến phòng thủ ở các huyện biên giới Mộc Hóa, Đức Huệ (1) và 44 người đi đào kinh Phước Xuyên ở Đồng Tháp Mười. Du kích xã còn cải thiện, tự lực cánh sinh nguồn lương thực với 30 sào ruộng.
Thực hiện chỉ đạo của huyện về tạo hàng cây phòng hộ, tránh nước làm xói mòn bờ kinh, hạn chế sụp lở đê, xã vận động nhân dân thực hiện phương châm “đắp đến đâu, trồng đến đó”, trồng các lọai cây theo dọc kinh đê, trên các trục giao thông để tạo bóng mát và mỹ quan. Nhân dân còn tận dụng đất đai ở gò ruộng, gò hoang, gò mả và nhiều nơi khác với khoảng 20 ha để trồng cây so đũa để vừa làm nhiên liệu chất đốt, thực phẩm chăn nuôi (lá, bông) và làm nấm mèo tăng thu nhập, cải thiện kinh tế đời sống và các loại cây lương thực khác như khoai, bắp, mì, cao lương... để cung cấp thêm nguồn lương thực cải thiện bữa ăn và nhu cầu chăn nuôi.
Chăn nuôi được bà con nhân dân phát triển với qui mô vừa và nhỏ trong khuôn khổ gia đình để cải thiện bữa ăn, vừa góp phần tăng thu nhập, chưa trở thành mặt sản xuất chính trong kinh tế nông nghiệp. Sang năm 1978, huyện có chính sách hỗ trợ và khôi phục nghề chăn nuôi như xây dựng mạng lưới thú y, thành lập trại chăn nuôi quốc doanh, hình thành cơ sở chế biến thức ăn gia súc cung cấp cho những trại chăn nuôi quốc doanh và phong trào chăn nuôi trên toàn địa bàn huyện... Nhờ đó, nhân dân trong xã tận dụng được mọi khả năng tiềm tàng để phát triển chăn nuôi heo với mỗi nhà trung bình nuôi 1 con heo, khoảng 20 con gà chuồng, vịt và đánh bắt cá tôm tự nhiên khoảng 15 kg..., góp phần đạt được hai yêu cầu cơ bản là tạo đủ nhu cầu về thịt cho nhân dân địa phương và trao đổi mua bán ở chợ Cần Đước. Nuôi vịt đàn cũng phát triển mạnh trong thời gian này.
Thực hiện cải tạo công thương nghiệp theo tinh thần Nghị quyết Đại hội lần thứ IV của Đảng, từ đầu năm 1978, Chỉ thị 115/TTg và Thông tư 105/NT-CT về việc phát triển hệ thống thương nghiệp xã hội chủ nghĩa thay thế thương nghiệp tư bản chủ nghĩa được tiến hành ở Phước Tuy. Là xã thuần nông nên công tác này không gặp nhiều khó khăn. Sau hơn 4 tháng tuyên truyền, vận động về chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước và tổ chức học tập về cải tạo công thương nghiệp tư doanh, đa số các giới tiểu chủ ở địa phương đều nhất trí chủ trương, cách làm của Nhà nước. Đến giữa năm 1978, việc trưng mua cơ sở sản xuất, cơ sở kinh doanh, phương tiện vận tải... cơ bản hoàn thành. Riêng hợp tác xã mua bán của xã được tổ chức từ tháng 3-1978 để phục vụ nhu cầu nhân dân. Nhìn chung hoạt động thương nghiệp trong thời gian này dù còn yếu nhưng có nhiều cố gắng trong việc nắm nguồn hàng (nhất là những loại nông sản quan trọng), bước đầu làm được vai trò phân phối hàng hóa đến người tiêu dùng, đảm bảo tiêu chuẩn thống nhất giữa mọi người, góp phần vào công tác cải tạo công thương nghiệp và tư doanh, quản lý thị trường ở địa phương, nhưng chưa làm được việc thu mua các mặt hàng sản xuất tại chỗ để tác động phát triển sản xuất.
Sắp xếp lại sản xuất trong nông nghiệp theo phương hướng phát triển kinh tế của các cấp bộ Đảng, tháng 12-1978, tỉnh Long An ra chỉ thị và tổ chức phát động quần chúng tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với nông nghiệp. Theo nghị quyết của Đảng bộ huyện, hợp tác xã và tập đoàn sản xuất đang ở dạng thí điểm. Dù gặp nhiều khó khăn trong việc vận động bà con vào làm ăn tập thể do một số phần tử xấu kích động, phá hoại, nhưng được tỉnh, huyện kịp thời lãnh đạo. Nhìn chung, đến 1980, tình hình cải tạo nông nghiệp ở Phước Tuy đạt được những bước đi ban đầu với việc xây dựng Ban nông nghiệp xã, hình thành tổ vần đổi công, các ấp có từ 4-5 đội đoàn kết sản xuất. Các đội đoàn kết nhìn chung xây dựng được kế hoạch và lịch công tác. Dù ít nhiều vẫn còn tâm lý chưa tin tưởng vào cách làm ăn và quản lý của mô hình mới nhưng việc tổ chức làm ăn tập thể trong thời gian này bước đầu giải quyết được một số vấn đề về nông nghiệp, nông thôn như: xóa bỏ tàn dư phong kiến chiếm hữu ruộng đất và bóc lột địa tô, thực hiện chính sách về hoa lợi đối với gia đình liệt sĩ neo đơn mất sức lao động, trả hoa lợi cho những chủ ruộng vào làm ăn tập thể ... Thực hiện công tác giản dân, xã đưa 30 người đi lập nghiệp ở xã Vĩnh Châu A (nay thuộc huyện Tân Hưng).
Nhìn chung, dù trong tình hình còn nhiều khó khăn, công tác cải tạo nông nghiệp và công thương nghiệp đã đạt được những bước cơ bản, cuộc sống của nhân tương đối ổn định. Sau đợt lũ 1978, sang năm 1979 - 1980 nhân dân trúng mùa nên phong trào thu mua lương thực và làm nghĩa vụ lương thực khá sôi nổi, nhất là ấp 1 và ấp 2, được tặng giấy khen năm 1980.
Để khắc phục khó khăn về giao thông, trong hai năm 1977-1978, huyện có nhiều nỗ lực khôi phục và mở mang thêm đường sá, sửa chữa và xây dựng lại cầu cống do chiến tranh tàn phá, cầu Hàn ở Phước Tuy là một trong số những công trình được sửa chữa đáng chú ý nhất, góp phần thiết thực vào việc đáp ứng yêu cầu bức thiết về giao thông cho nhân dân địa phương trong điều kiện lúc bấy giờ.Quán triệt quan điểm của Đảng trong thời gian này là tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng(1), song song với phát triển kinh tế, ổn định và từng bước nâng cao đời sống nhân dân, xã có nhiều cố gắng trong công tác tư tưởng - văn hóa - xã hội, cụ thể là phổ biến tinh thần các văn kiện, nghị quyết của Đại hội IV của Đảng về tiến hành cải tiến giáo dục, phát triển văn hóa, nghệ thuật, giáo dục tư tưởng xã hội chủ nghĩa, phê phán tư tưởng tiểu tư sản, quét sạch ảnh hưởng tư tưởng văn hóa thực dân.
Tận dụng mọi khả năng của dân kết hợp với sự chi viện của trên, xã mở thêm nhiều điểm học ở các ấp vùng sâu để kịp thời đáp ứng nhu cầu học tập tăng nhanh của học sinh, đảm bảo trẻ em trên địa bàn đến tuổi học đều được đến trường. Đồng thời với giáo dục mẫu giáo và phổ thông các cấp, xóa mù chữ và phổ cập văn hóa lớp 2 cho nhân dân và lớp 5 cho cán bộ công nhân viên nhà nước, chiến sĩ và con em gia đình thương binh, liệt sĩ cũng được tiến hành(1), đến cuối năm 1978, công tác trên ở xã hoàn thành cơ bản, góp phần vào thành công chung của nhiệm vụ này trên toàn huyện. Hầu hết cán bộ xã có trình độ văn hóa thấp đều được cử đi học bổ túc công nông của huyện, tỉnh.
Ngay trong năm 1977, trạm y tế xã được xây dựng(2), dù còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, thuốc men, nhưng đã nỗ lực khám chữa bệnh tại chỗ và phối hợp với trên về xóm ấp tiêm chủng và bán thuốc, góp phần chăm sóc sức khỏe cho nhân dân. Kết hợp với trên thực hiện vệ sinh phòng dịch nhằm bảo đảm sức khỏe trong nhân dân, xã vận động thực hiện nếp sống mới, ăn ở vệ sinh, hạn chế tối đa tình trạng phóng uế bừa bãi xuống sông, rạch, kinh mương... Các tổ cấp cứu được hình thành để kịp thời xử lý các trường hợp cấp cứu. Dù huyện có phát động xã xây dựng vườn thuốc Nam nhưng phong trào chữa trị theo phương pháp Đông-Tây kết hợp vẫn còn chưa phổ biến.
Xã tiếp tục bài trừ tàn dư văn hóa nô dịch, độc hại của chế độ thực dân mới, đồng thời với xây dựng phong trào văn hóa văn nghệ quần chúng để tạo ra đời sống văn hóa vui tươi và lành mạnh nhằm động viên tinh thần lao động, góp phần giáo dục lối sống văn hóa mới. Ngoài trạm truyền thanh được xây dựng cuối năm 1978, đội thông tin lưu động huyện thường xuyên về thông tin tuyên truyền cho nhân dân về các chủ trương chính sách của Đảng, Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của địa phương. Nhờ vậy, nhân dân được hưởng thụ sản phẩm của nền văn hóa cách mạng mà trước đây không có được qua các đợt chiếu phim của đội chiếu phim lưu động, đoàn cải lương của tỉnh, góp phần có hiệu quả vào việc từng bước đáp ứng nhu cầu văn hóa tinh thần của nhân dân, đẩy lùi dần tàn dư văn hóa cũ, đồng thời qua đó tuyên truyền chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và vận động các phong trào cách mạng lúc bấy giờ như làm ăn tập thể, nghĩa vụ lương thực, nghĩa vụ quân sự bảo vệ Tổ quốc…
Thương binh - xã hội là lĩnh vực nặng nề và gặp nhiều khó khăn trong việc xác định rõ nhiều trường hợp, nhưng quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội IV của Trung ương Đảng và chỉ thị của Tỉnh ủy về thực hiện chính sách thương binh-xã hội, được sự chỉ đạo trực tiếp của Huyện ủy và hướng dẫn của Phòng Thương binh-Xã hội huyện, xã có nhiều nỗ lực trong việc tuyên truyền trong nhân dân về chủ trương của Đảng đối những người đã hy sinh và bỏ một phần thân thể vì sự nghiệp cách mạng, xúc tiến việc điều tra xác nhận liệt sĩ, lập hồ sơ đề nghị về trên công nhận đối với các đối tượng chính sách, thực hiện giải quyết chính sách, đến cuối năm 1980, tiến hành quy tập hài cốt liệt sĩ về nghĩa trang liệt sĩ huyện.
Đây là thời gian diễn ra cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, “củng cố, kiện toàn lực lượng vũ trang, sẵn sàng làm nhiệm vụ chiến đấu bảo vệ Tổ quốc” được đưa lên ngang tầm với nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội. Với quan điểm chọn lựa đối tượng cơ bản, xã xây dựng lực lượng dân quân du kích xã, ấp đạt chỉ tiêu huyện giao, với ban chỉ huy quân sự gồm 4 đồng chí, củng cố đội dân quân xã, mỗi ấp 5 đồng chí, thường xuyên sinh hoạt kiểm điểm, sẵn sàng chiến đấu. Xã tích cực tuyên truyền chính sách quốc phòng toàn dân nên việc đưa con em vào bộ đội tham gia bảo vệ Tổ quốc trong những năm này cơ bản đạt chỉ tiêu giao. Ngoài thực hiện nhiệm vụ thường xuyên như quản lý trật tự, phối hợp các cơ quan chức năng quản lý thị trường lương thực, củng cố xây dựng lực lượng công an xã, ấp, xã còn phối hợp chặt chẽ với trên trong nhiệm vụ triệt phá các tổ chức phản động, hoạt động vượt biên trong thời gian 1977 đến 1980, góp phần ổn định tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn. Qua vận động và tạo điều kiện, hầu hết lính ngụy quân, ngụy quyền thuộc diện cải tạo tại chỗ và đi tập trung đã hòa nhập vào cuộc sống lao động sản xuất, đóng góp cho cộng đồng, quê hương, nâng dần niềm tin vào chế độ mới.
“Củng cố tăng cường hệ thống chuyên chính vô sản, phấn đấu tăng cường sự lãnh đạo, nâng cao sức chiến đấu, năng lực tổ chức thực hiện của Đảng bộ, cán bộ, đảng viên, kiện toàn tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể các cấp, đặc biệt là cấp huyện và cấp xã…” theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Long An lần I, năm 1977, trong đó “khẩn trương củng cố xây dựng Đảng vững mạnh về mọi mặt cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức”, chi ủy quan tâm việc tổ chức học tập các nghị quyết với tinh thần “Toàn thể cán bộ đảng viên quán triệt sâu sắc Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IV và Nghị quyết Đại hội tỉnh Đảng bộ lần thứ nhất”. Thời gian này, các nghị quyết chuyên đề, nhất là về phát triển nông nghiệp của Đảng bộ tỉnh được quán triệt đến từng đảng viên. Trong sinh họat, chi ủy luôn quan tâm đến nội dung phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, rèn luyện đạo đức cách mạng, chống chủ nghĩa cá nhân, tự phê bình và phê bình. Việc bỏ phiếu tín nhiệm để phát thẻ Đảng được thực hiện nghiêm túc. Tất cả các ấp đều có tổ Đảng hoặc đảng viên làm nòng cốt để lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị hợp tác hóa nông nghiệp. Xã còn tổ chức nhiều cuộc học tập trong nội bộ và ngoài quần chúng về nội dung chống tiêu cực nhằm phát huy quyền làm chủ tập thể của quần chúng trong việc phát giác và tố cáo làm trong sạch nội bộ. Dù cần phải được tiếp tục được bồi dưỡng, đào tạo và nâng lên hơn nữa về trình độ chính trị lẫn chuyên môn nhưng nhìn chung chi ủy xã có nhiều nỗ lực trong việc nâng cao nhận thức chính trị, tự phê bình và phê bình, nâng cao tinh thần trách nhiệm và thể hiện được vai trò lãnh đạo trong hệ thống chuyên chính vô sản ở địa phương.
Sau bầu cử Hội đồng nhân dân cấp xã khóa I (1977-1979), rồi khóa II (1979-1981) gồm 31 đại biểu, Ủy ban nhân dân đầu tiên ra đời, bộ máy dần được củng cố, kiện toàn theo tinh thần quyết định của Hội đồng Chính phủ và Nghị quyết 4 của Tỉnh ủy, nhờ đó, trở nên gọn nhẹ và tập trung hơn, cán bộ chủ chốt được bồi dưỡng, từng bước đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Đặc điểm của bộ máy chính quyền thời gian này là có nhiệt tình cách mạng, trách nhiệm, ý thức nỗ lực giải quyết hành chính và chỉ đạo công tác sản xuất nông nghiệp, hoạt động thương nghiệp, nhưng do chưa được đào tạo và chưa có kinh nghiệm nên còn hạn chế về nhiều mặt, nhất là tác phong và lề lối làm việc. Với Hội đồng nhân dân, do là khóa mới và chưa hiểu rõ chức năng, nhiệm vụ của mình nên hội họp, tiếp xúc cử tri chưa đạt yêu cầu, chưa kịp thời phản ảnh những vấn đề bức xúc của dân, nói chung là chưa đáp ứng nhiệm vụ là cơ quan đại diện của dân. Tình hình đó đòi hỏi xã phải có bước đi đồng bộ trong việc vừa đào tạo, vừa sắp xếp lại cán bộ các ngành một cách hợp lý trên tinh thần đảm bảo công việc. Một nhiệm vụ nữa được đặt ra lúc này là việc củng cố đội đoàn kết sản xuất các ấp để làm cơ sở xây dựng tập đoàn sản xuất.
Những nhiệm vụ chính trị trong thời gian này như cải tạo nông nghiệp, tuyển quân, thu mua lương thực... đặt ra những yêu cầu và nỗ lực cho công tác vận động quần chúng. Dù cần tiếp tục củng cố, phát triển hội viên và phát huy hơn nữa vai trò quan trọng của mình nhưng Mặt trận và các đoàn thể có nhiều nỗ lực trong việc mở rộng lực lượng, tập hợp các thành phần trong cộng đồng địa phương làm nòng cốt, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ xây dựng đội đòan kết sản xuất, thanh niên làm nghĩa vụ bảo vệ Tổ quốc, nghĩa vụ lao động ở xã, trong huyện, đào đắp tuyến phòng thủ biên giới, nghĩa vụ lương thực…, góp phần quan trọng vào việc hoàn thành nhiệm vụ chung trong thời gian này.
Hơn ba năm thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương theo tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ nhất (1977-1979) và nghị quyết chi bộ xã lần thứ II, Phước Tuy tiến hành củng cố, kiện tòan bộ máy chuyên chính vô sản, bước đầu cải tạo xã hội chủ nghĩa, xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội, ổn định và từng bước nâng cao đời sống nhân dân trong điều kiện hết sức khó khăn. Vừa bước ra khỏi thời kỳ chiến tranh với biết bao nhiệm vụ phải khắc phục trong thời gian dài, thì lại phải hứng chịu thiên tai địch họa mới. Đó là nạn hạn hán, sâu rầy và cơn lũ lụt lịch sử năm 1978 làm mất mùa liên tiếp. Trong khi phải góp sức cho cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam thì ở nội địa phải đối phó với tình hình phá hoại bằng hoạt động tâm lý của các phần tử phản động gây tác động tiêu cực đến việc thực hiện các chính sách lớn ở địa phương lúc bấy giờ, nhất là tuyển quân, cải tạo nông nghiệp...
Dù vậy, dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy, Phước Tuy nỗ lực và đạt được nhiều kết quả quan trọng về củng cố bộ máy chuyên chính vô sản, đảm bảo ổn định an ninh chính trị và trật tự xã hội, làm cơ sở cho việc thực hiện nhiệm vụ kinh tế-xã hội trong thời gian này như: thủy lợi, khai hoang phục hóa, tổ chức lại sản xuất, bước đầu thực hiện cải tạo nông nghiệp, xóa tàn dư bóc lột, tham gia chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, đẩy mạnh các mặt họat động văn hóa-xã hội như trị bệnh, học hành, thực hiện chế độ chính sách đối với gia đình thương binh liệt sĩ, xóa bỏ tàn dư văn hóa độc hại, phát triển phong trào văn hóa văn nghệ, từng bước ổn định đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
3.2. Vượt qua khó khăn, tiếp tục cải tạo xã hội chủ nghĩa, phát triển kinh tế-xã hội, từng bước nâng cao đời sống nhân dân (1981-1985)
Phước Tuy bước vào thực hiện kế hoạch 5 năm (1981 - 1985) trong bối cảnh huyện nhà đạt được nhiều thắng lợi quan trọng trên nhiều mặt mà nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ nhất đề ra trong giai đọan 1977-1979. Bộ máy chuyên chính vô sản của xã được củng cố vững mạnh, đội ngũ cán bộ, đảng viên qua kháng chiến được tôi luyện, nay được bổ sung thêm những nhân tố mới tràn đầy nhiệt tình cách mạng và tinh thần cống hiến là điều kiện có tính chất nền tảng, là nguồn lực con người đảm bảo cho việc thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Nhân dân có tinh thần cần cù lao động, khắc phục khó khăn, tha thiết với phát triển sản xuất và vươn lên. Tiềm năng đất đai, lao động còn rất lớn chưa được khai thác và phát huy. Tàn dư văn hóa cũ bị đẩy lùi, đời sống văn hóa mới từng bước được hình thành trên vùng nông thôn mới.
Bên cạnh những thuận lợi ấy, xã cũng còn nhiều khó khăn. Đất sản xuất nông nghiệp đa phần còn bị nhiễm phèn, mặn, diện tích canh tác phần lớn còn sản xuất một vụ, năng suất thấp. Mạng lưới thủy lợi chưa đáp ứng yêu cầu tưới tiêu phát triển sản xuất, còn phụ thuộc vào nguồn nước mưa, nếu hạn hán (như 1977) xem như mất mùa. Kinh tế xã còn thuần nông, trong khi lao động chưa có việc làm còn nhiều. Cải tạo nông nghiệp chỉ đạt bước đầu với cơ sở vật chất kỹ thuật sản xuất còn thiếu thốn. Ban quản lý tập đoàn, cán bộ chưa có kinh nghiệm lãnh đạo sản xuất. Giao thông nông thôn còn hạn chế, bức xúc. Cơ sở vật chất, trang thiết bị về giáo dục và y tế còn nghèo nàn. Tình trạng bóc lột dưới hình thức cho vay lãi nặng bằng tiền, bằng lúa của phú nông và tư sản nông thôn vẫn còn tồn tại. Đời sống nhân dân có được ổn định nhưng về cơ bản còn nhiều khó khăn, mức sống thấp. Mặt trận và đoàn thể chưa phát huy hết vai trò trong hệ thống chuyên chính vô sản.
Trong bối cảnh ấy, trên cơ sở nghị quyết của Đảng bộ huyện lần thứ II và thứ III, Nghị quyết 04 của Tỉnh ủy về “Xây dựng xã vững mạnh về mọi mặt”, hai kỳ đại hội chi bộ (1981-1983 và 1983-1985) xã vạch ra phương hướng cho kế họach 5 năm (1981-1985) với những vấn đề cơ bản là: Ra sức động viên, giáo dục, giác ngộ trong nội bộ và quần chúng nhân dân nghiêm chỉnh chấp hành đường lối chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước; đồng thời đẩy mạnh kiện toàn hệ thống chuyên chính vô sản từ xã đến ấp, đủ sức lãnh đạo và đưa cách mạng cải tạo xã hội chủ nghĩa ở địa phương lên bước vững chắc. Hoàn thành cải tạo nông nghiệp với mô hình tập đoàn sản xuất và cải tạo công thương nghiệp. Dựa vào tiềm năng đất đai và lao động hiện có, tập trung đẩy mạnh sản xuất, đảm bảo không ngừng tăng sản lượng và mức đóng góp cho Nhà nước. Phát huy tinh thần tự lực tự cường, đẩy mạnh công tác thủy lợi, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất, tăng diện tích lúa hai vụ, giữ vững lúa định canh ở những nơi thích hợp, phát triển lương thực, thực phẩm, tăng thu nhập, ổn định đời sống nhân dân. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện cách mạng văn hóa tư tưởng, xây dựng văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa đồng thời với hai cuộc cách mạng quan hệ sản xuất và khoa học kỹ thuật. Tăng cường vai trò lãnh đạo toàn diện của chi bộ Đảng bằng nghị quyết. Nâng cao lập trường, quan điểm giai cấp và ý thức giác ngộ về chủ nghĩa xã hội, củng cố mối quan hệ đoàn kết nhất trí trong nội bộ, phân công các đồng chí đảng viên về các tập đoàn sản xuất để tăng cường sức lãnh đạo của Đảng. Xây dựng và củng cố quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân.
Những mục tiêu cùng những giải pháp thực hiện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế-xã hội, cải tại nông nghiệp và công thương nghiệp, an ninh-quốc phòng và củng cố, xây dựng hệ thống chuyên chính vô sản cũng được chi bộ đặt ra với quyết tâm vượt qua khó khăn, hoàn thành từng bước nhiệm vụ đã đề ra trong giai đoạn này.
Về kinh tế, xác định nông nghiệp là nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu, từ năm 1981, xã tập trung cho công tác cải tạo nông nghiệp.Từ kết quả bước đầu của những năm 1978-1980 với hình thức đội đoàn kết sản xuất, nay có thêm Nghị quyết 7 của Thường vụ Tỉnh ủy, Chỉ thị 100(1) và 19 của Trung ương và sự chỉ đạo, uốn nắn kịp thời của Huyện ủy bằng Nghị quyết 06 năm 1982 đã tạo điều kiện cho tình hình hợp tác hóa nông nghiệp của xã vượt qua những khó khăn ban đầu, tiến tới mô hình tập đoàn sản xuất. Sau nhiều nỗ lực vận động hiến điền và nhường cơm sẻ áo, điều chỉnh ruộng đất, qui hoạch ranh giới, củng cố ban quản lý các đội đoàn kết sản xuất, đến năm 1985, xã hoàn thành cơ bản hợp tác hóa nông nghiệp gồm 18/18 tập đoàn sản xuất theo qui hoạch, với số hộ đạt 1.191/1.247 (95,5%), diện tích tập thể hóa là 937, 90ha/1.000,48 ha (đạt 93,74%). Công tác cải tạo nông nghiệp trong thời gian này theo tinh thần Chỉ thị 100 và 19 của Trung ương tuy còn nhiều khiếm khuyết về nhận thức và hành động chưa thống nhất, còn thái độ chần chừ, do dự, ngại khó nên một số đảng viên thiếu gương mẫu, không giác ngộ được quần chúng, hạn chế về tổ chức quản lý, ăn chia và sản lượng giao khoán chưa hợp lý gây thắc mắc nhưng nhìn chung đã tác động tích cực đến nông dân trong việc làm ăn theo kế hoạch, mở rộng sản xuất, xây dựng kế hoạch bố trí cây trồng thích hợp cho từng vùng đất, mở rộng phát triển kinh tế gia đình nhằm từng bước ổn định đời sống, tham gia vào các đoàn thể quần chúng làm nòng
cốt phong trào, tham gia nghĩa vụ thuế, huy động lương thực, lao động xã hội chủ nghĩa…, góp phần vào nhiệm vụ cơ bản xóa bóc lột ruộng đất ở nông thôn, từng bước tạo ra mối quan hệ bình đẳng, tương trợ đoàn kết trong nội bộ nông dân ở địa phương. Vì vậy, dù thời gian này tình hình giá lương tiền biến động, nhưng nhờ những nỗ lực trên, xã cân đối kế hoạch thu, chi hoàn thành các chỉ tiêu đề ra ở địa phương.
Đồng thời với cải tạo quan hệ sản xuất, xã tích cực xây dựng kế hoạch sản xuất, tập trung mọi khả năng và biện pháp khắc phục khó khăn như: đảm bảo cung ứng vật tư, kịp thời đầu tư phân bón, thuốc trừ sâu, bố trí phương tiện cày xới, mở rộng diện tích sản xuất, tích cực chọn cây, con giống, tiếp cận khoa học kỹ thuật ứng dụng vào nông nghiệp, thâm canh tăng vụ, dựa trên thế mạnh của từng loại đất và phát huy lợi thế của từng vùng, từng bước loại bỏ những giống lúa có năng suất bấp bênh, mạnh dạn thay bằng những giống lúa kháng sâu bệnh, năng suất cao, tiến tới xóa bỏ thế độc canh cây lúa 1 vụ... Cùng với nhiều công trình thủy lợi trong khu vực như đập Bến Bạ, Bến Trễ... phát huy tác dụng, xã còn tiến hành nạo vét kênh nội đồng, đào mới kênh N 8 ở ấp 2... Đặc biệt, đập Bến Trễ được hoàn thành trong những năm 1985 đã đóng vai trò quan trọng hàng đầu trong việc góp phần cải tạo đất, tăng vụ, nhờ đó, sản xuất lương thực có bước phát triển hơn so với trước, với diện tích lúa 2 vụ là 165 ha, lúa 1 vụ là 835 ha. Riêng hiện tích lúa Hè Thu tăng 40 ha so với những năm 1981 với năng suất bình quân đạt 3,2 tấn/ha. Sản lượng bình quân đầu người tăng từ 194kg năm 1980 lên 274 kg/ người năm 1984 và đến năm 1985 là 380kg/người, tăng gấp hai lần. Nhìn chung, dù chưa thể so sánh với các xã mạnh về sản xuất lương thực ở vùng thượng của huyện nhưng trong điều kiện của mình, những nỗ lực trên là kết quả có ý nghĩa quan trọng, dù đời sống nông dân vẫn còn khó khăn.
Các loại cây trồng khác như cây mía được trồng trên đất thổ cư với khoảng 20 ha nhưng sản lượng không cao. Thấy được lợi ích và hiệu quả kinh tế của việc trồng cây phân tán, từ sự vận động của các cơ quan chuyên môn, xã phát động nhân dân trồng 13.200 cây bạch đàn, so đũa để làm củi, lấy gỗ xây dựng và làm nấm, lấy lá (so đũa) làm thức ăn cho gia súc.
Chăn nuôi, nhất là nuôi heo gặp nhiều khó khăn do giá heo giống và thức ăn gia súc quá cao nhưng xã có nhiều nỗ lực về củng cố tăng cường công tác thú y, theo sát tình hình nhằm chữa trị kịp thời, khuyến khích nhân dân phát triển đàn gia cầm theo thời điểm, theo mùa... để giữ vững và phát triển đầu con các loại. Nhờ vậy, phong trào chăn nuôi vẫn khá phát triển như là một phương thức phát triển kinh tế quan trọng để cải thiện và tăng thêm thu nhập trong đời sống nhân dân thời gian này và vừa để tạo nguồn phân bón hữu cơ cải tạo đồng ruộng bên cạnh nguồn phân vô cơ được phân phối còn hạn chế. Đến năm 1985, toàn xã có 780 con heo, 160 con trâu, trong đó có 80 con dùng cho sức kéo, 700 con dê, 10 con bò, 15.000 con gà vịt. Người dân còn tận dụng diện tích mặt nước để nuôi cá, nhất là cá tra, cá rô phi, cá trắm cỏ... cũng là một phương thức kinh tế để cải thiện đời sống một cách hiệu quả với hầu hết mỗi hộ đều có nuôi.
Thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy về “lấp kín Đồng Tháp Mười”, xã nỗ lực quán triệt tinh thần chỉ đạo trên đến nội bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể và đến đoàn viên. Ngoài việc đưa lao động đào kinh, đắp đường về Đồng Tháp Mười, nổi bật là đường 49 (nay là Quốc lộ 62) từ thị xã Tân An đến Tân Thạnh và mở rộng đoạn từ Tân Thạnh về Mộc Hóa, thực hiện xây dựng xã B và tập đoàn B theo tinh thần chỉ đạo của Tỉnh ủy(1), xã vận động và tổ chức xây dựng 2 tập đoàn sản xuất ở Bình Hòa Tây (Mộc Hóa), đã đắp xong bờ vùng bờ thửa và đi vào sản xuất vụ Đông Xuân 1984 và Hè Thu 1985 với diện tích 23 ha. Dù kết quả thực hiện còn khiêm tốn so với chỉ tiêu đề ra nhưng công tác điều dân lập nghiệp ở Đồng Tháp Mười của Phước Tuy trong thời gian này ít nhiều tạo sự chuyển biến về nhận thức trong cán bộ, đảng viên và nhân dân trong việc giải quyết khó khăn về lương thực và đời sống, điều dân và mở rộng diện tích sản xuất.
Xác định lưu thông phân phối là công tác quan trọng và hết sức nhạy cảm trong thời gian này, thực hiện Nghị quyết 8 Ban Chấp hành Trung ương về cải tiến phân phối lưu thông, chấp hành chỉ đạo của huyện, xã tăng cường lãnh đạo, quản lý chặt chẽ, từng bước hạn chế mặt tiêu cực của thị trường tự do và củng cố hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng trong nỗ lực mở rộng mạng lưới xuống ấp nhằm phục vụ nhu cầu thiết yếu của nhân dân. Được hình thành từ cuối năm 1977 đầu năm 1978, sau thời gian hoạt động còn hạn chế, yếu kém, đến tháng 6-1984, chi ủy mạnh dạn củng cố, tổ chức lại ban chủ nhiệm và bộ máy (1), đưa cán bộ cấp chi ủy viên phụ trách, nỗ lực tăng cường các nguồn hàng thiết yếu, đặc biệt là dầu thắp sáng, mở rộng mạng lưới phục vụ. Nhờ đó, ngoài 1 cửa hàng chính của xã, đã mở thêm 5 quầy hàng ở các ấp 1, 2, 4, 5, 6 và ấp 7, vốn cổ phần và doanh số đều tăng (2). Do hợp tác xã mua bán trong một thời gian dài yếu kém chưa tạo được lòng tin trong dân, ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng, chi ủy xác định dù rất khó khăn vẫn quyết tâm củng cố, đến năm 1985, xã xây dựng lại hợp tác xã tín dụng với 373 cổ phần, tiến hành đại hội, bầu ra ban quản lý 3 đồng chí.
Thực hiện cuộc vận động nhân dân mua công trái phiếu xây dựng Tổ quốc theo tinh thần Nghị quyết 15 của Bộ Chính trị, Pháp lệnh của Hội đồng Nhà nước và Chỉ thị của Thường vụ Tỉnh ủy, năm 1984, xã triển khai quán triệt tinh thần chủ trương này trong nội bộ Đảng, chính quyền, đoàn thể, đồng thời phân công cán bộ xuống các tập đoàn tuyên truyền giải thích sâu rộng trong nhân dân. Nhờ vậy, dù còn gặp nhiều khó khăn, nhân dân vẫn nhiệt tình đóng góp có hiệu quả bằng nhiều hình thức và còn gửi tiền tiết kiệm (3). Nhìn chung, công tác cải tạo công thương nghiệp ở Phước Tuy cơ bản hoàn thành (trừ một vài cơ sở xay xát gạo chưa vào quốc doanh mà hợp đồng xay xát ăn chia) nhưng hoạt động thương nghiệp chỉ đạt tầm mức phục vụ nhu cầu thiết yếu của dân, chưa đủ khả năng chủ động nắm nguồn hàng, vươn lên chiếm lĩnh thị trường.
Trong đợt đổi tiền năm 1985, nhờ Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện chỉ đạo kịp thời bình ổn giá cả thị trường và đồng thời tiến hành các biện pháp tăng nguồn hàng, đấu tranh quản lý thị trường, tuyên truyền giáo dục nêu cao tinh thần trách nhiệm, ý thức phục vụ nhân dân, phối hợp với các cơ quan quản lý tăng cường công tác kiểm tra, ngăn ngừa tiêu cực nội bộ của ngành Thương nghiệp, đổi tiền lẻ cho tất cả các đối tượng tiêu dùng trong vòng 4 ngày (11 đến 14-10-1985) của ngành Ngân hàng, nên nhân dân được đảm bảo đầy đủ các mặt hàng thiết yếu cũng như giải quyết được tình hình khan hiếm tiền lẻ, góp phần đảm bảo mọi sinh hoạt bình thường ở xã.
Là công tác trọng tâm, huy động lương thực được cấp ủy thường xuyên chỉ đạo và quán triệt thông suốt trong nội bộ, đồng thời có tập trung lực lượng tuyên truyền mạnh trong dân về “3 thu và bán lúa thừa” nên huy động mỗi năm đều tăng (1). Tuy nhiên, dù có kế hoạch cụ thể nhưng thu mua lương thực có lúc còn tùy tiện chưa chấp hành đúng chỉ đạo và tư tưởng chưa kiên quyết nên nhìn chung chưa mua hết số lúa thừa trong dân.
Đến năm 1985, công tác kết hợp cùng ban quản lý ruộng đất huyện điều tra phân hạng ruộng đất, công bố ra dân và lập bộ thuế mới năm 1984-1985 hoàn thành. Do nguồn thu của xã chủ yếu dựa vào nguồn thuế nông nghiệp là chính nên gặp nhiều khó khăn, thu không đủ chi, dù xã nỗ lực thu hết các nguồn khác nhưng hàng năm phải nhờ vào trợ cấp của huyện. Tuy nhiên, đến năm 1985, tình hình có bước cải thiện (2). Huy động lao động công ích hàng năm đều được tiến hành điều tra nắm nguồn ở cả 3 tuyến tỉnh, huyện, xã để cân đối thực hiện các công trình chung, nhất là các công trình ở xã dù cũng còn nhiều hạn chế. Mức huy động năm 1985 có bước khởi sắc (3) nhưng nhìn chung trong một thời gian dài, công tác xét miễn giảm chưa tạo sự tin tưởng nên chưa huy động hết lực lượng lao động. Năm 1984, hương lộ 21 được huyện mở rộng và nâng cấp bằng đất đen, cải thiện đáng kể điều kiện giao thông ở địa phương sau bao nhiêu năm luôn trong tình trạng lầy lội vào mùa mưa. Xã còn đắp con đường mới từ ấp 3 đến ấp 4 để phục vụ đi lại và sản xuất.
Nhìn chung, trên lĩnh vực kinh tế, những nỗ lực trên đã góp phần ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, nhưng vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế, nhất là về cải tạo nông nghiệp, như Huyện ủy đã đánh giá là: “Nội dung về tập đoàn sản xuất ở một số tập đoàn vẫn còn chung chung, mơ hồ, chủ yếu là khoán trắng. Nhận thức và hành động chưa thống nhất, còn thái độ chần chừ, do dự, ngại khó nên có một số đảng viên thiếu gương mẫu, không giác ngộ được quần chúng. Trái lại, có nơi làm mạnh nhưng lệch lạc về nhận thức tư tưởng, bình quân chủ nghĩa, cào bằng, nôn nóng, không có kế hoạch vững chắc, không nắm vững phương pháp, các bước đi trong xây dựng phong trào. Thiếu quan tâm và chỉ đạo bồi dưỡng, củng cố các đội đoàn kết sản xuất đã có và phát triển mới để tập dượt cho nông dân phù hợp với giai đoạn quá độ. Việc tổ chức chỉ đạo thực hiện cải tạo nông nghiệp thiếu liên tục và tập trung, chưa huy động được sức mạnh tổng hợp để phục vụ công tác này, cán bộ chuyên môn huyện, xã chậm tăng cường và củng cố”. Việc quản lý điều hành trên một số lĩnh vực như kế hoạch tài chính còn nhiều lúng túng do chưa qua trường lớp. Việc kiểm tra đôn đốc ở một số mặt còn chưa thường xuyên. Công tác chính trị tư tưởng ở một số tập đoàn sản xuất nhiều lúc chưa được quan tâm đúng mức. Ngoại trừ tập đoàn 1 và tập đoàn 2 có phương hướng, kế hoạch và phương án phân phối lương thực theo ngày công, sản phẩm phân phối theo lao động, có tích lũy, hầu hết năng lực quản lý điều hành của một số cán bộ tập đoàn sản xuất chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ.
Cùng với cải tạo và phát triển kinh tế, xã có nhiều nỗ lực trên lĩnh vực văn hóa - xã hội. Nhiều thầy cô giáo ở xã trong thời gian này dù hoàn cảnh khó khăn, thiếu thốn vẫn kiên trì bám trường, bám lớp. Đời sống nhân dân đại bộ phận còn nhiều khó khăn nhưng sẵn sàng tham gia đóng góp cho sự nghiệp giáo dục. Nhờ đó, dù trong điều kiện còn nhiều khó khăn về cơ sở vật chất trường học, việc triển khai Chỉ thị 32 của Ủy ban nhân dân huyện về thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” và nghị quyết Hội đồng nhân dân xã khóa III đã đem đến những kết quả quan trọng trong việc từng bước giải quyết điểm trường, điểm lớp cho số học sinh. Đến năm 1985, toàn xã tăng lên 4 điểm trường, với 45 giáo viên, 36 lớp, trong đó 5 lớp mẫu giáo, 27 lớp cấp I và 4 lớp cấp II. Công tác bổ túc văn hóa tiếp tục được quan tâm, đã tổ chức với 1 lớp gồm 10 cán bộ theo học, đồng thời với việc điều tra nắm lại số người mù chữ trong nhân dân và xây dựng kế hoạch phổ cập lớp 2. Tuy nhiên, điều kiện cơ sở vật chất trường học vẫn chưa đáp ứng yêu cầu tình hình học sinh gia tăng nên vẫn có tình trạng 3 ca. Đời sống giáo viên nói chung còn nhiều khó khăn, điều kiện ăn ở sinh hoạt còn nhiều bức xúc, ít nhiều ảnh hưởng đến chất lượng dạy và học trong thời gian này.
Hoạt động y tế còn rất nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, trang thiết bị và thuốc men nhưng cơ bản đáp ứng được yêu cầu chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân với các loại thuốc thông thường và kết hợp với trên thường xuyên xuống tận các gia đình để cấp thuốc, mở các đợt phun thuốc phòng chống ngăn ngừa bệnh dịch. Đến năm 1985, trạm y tế xã có 7 cán bộ, trong đó có 2 y sĩ, 1 y tá, 1 hộ sinh, 1 đông y và 2 cứu thương, có 14 giường bệnh và dụng cụ khoa sản, đặc biệt y học cổ truyền được quan tâm, có vườn thuốc Nam và nguồn thuốc Nam phục vụ cho điều trị Đông Tây y kết hợp, tạo tin tưởng trong dân (1). Từ khi huyện triển khai mạnh chương trình sinh đẻ có kế hoạch vào năm 1985, công tác này được nhân dân ủng hộ và bước đầu thực hiện (2). Các phong trào vệ sinh phòng bệnh như “ăn chín, uống chín”, xây dựng nhà tắm, hố xí hai ngăn... được phát động, bước đầu tác động tích cực đến nhận thức trong nhân dân. Tuy nhiên, mạng lưới y tế cơ sở chưa được chú trọng củng cố đến các tập đoàn sản xuất.
Thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước và toàn xã hội đối với gia đình thương binh liệt sĩ, xã quan tâm tuyên truyền trong nhân dân về ý thức tri ân gia đình chính sách, những người đã hy sinh và bỏ một phần xương máu cho sự nghiệp cách mạng. Bên cạnh việc giải quyết công việc có tính chất thường xuyên về chính sách cho gia đình liệt sĩ, thương binh, mất sức, về hưu luôn đảm bảo kịp thời, đúng chế độ, hàng năm, xã đều tổ chức kỷ niệm ngày Thương binh liệt sĩ một cách trang trọng, cứu tế thường xuyên và đột xuất cho gia đình chính sách gặp khó khăn (3), tảo một liệt sĩ, thăm viếng gia đình chính sách nhân các ngày lễ tết. Công tác điều tra cơ bản được hoàn thành và giải quyết cơ bản chế độ khen thưởng ba thời kỳ. Đến năm 1985, xã đã qui tập 138 hài cốt liệt sĩ về nghĩa trang liệt sĩ huyện. Công tác xã hội được xã hướng về các gia đình khó khăn, già cả, neo đơn và tai nạn đột xuất qua các cuộc vận động nhường cơm xẻ áo, ủng hộ vật chất bằng tiền và gạo. Trong bối cảnh khó khăn lúc bấy giờ, những gì xã làm được trong thời gian này về chính sách-xã hội, dù có khiêm tốn nhưng đã góp phần quan trọng trong việc thể hiện đạo lý “uống nước nhớ nguồn” và củng cố niềm tin của nhân dân địa phương đối với Đảng và Nhà nước.
Xã củng cố ban văn hóa thông tin để thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm về văn hóa xã hội như kỷ niệm, tuyên truyền thành tựu sau 10 năm giải phóng miền Nam, 40 năm thành lập nước, nhiệm vụ chính trị của địa phương và các cuộc vận động lớn như nghĩa vụ quân sự, huy động lương thực, quản lý thị trường, cải tạo nông nghiệp và công thương nghiệp, mua công trái xây dựng Tổ quốc, đóng góp xây dựng bệnh viện đa khoa, xây dựng trường lớp... Các đội chiếu phim lưu động của tỉnh, huyện cũng thường xuyên về xã phục vụ cho nhân dân trong thời gian này. Có thể thấy rằng, dù vẫn còn một số hạn chế về tuyên truyền giáo dục như chưa thường xuyên nêu các gương điển hình, các mô hình tích cực, phổ biến mạnh cái hay, cái đẹp, phong trào văn nghệ quần chúng chưa thực sự mạnh..., nhưng những hoạt động trên đã góp phần từng bước hạn chế và đẩy lùi các tệ nạn và tàn dư văn hóa độc hại, các hủ tục và lối sống kém lành mạnh, để từng bước nâng cao đời sống tinh thần và tăng cường ý thức xây dựng đời sống văn hóa mới ở nông thôn.
Nhìn chung, dù vẫn còn một số vấn đề cần khắc phục và nâng lên như việc tuyên truyền đường lối chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước còn đơn điệu về hình thức, nội dung chưa sâu; cơ sở vật chất, điều kiện giảng dạy của ngành giáo dục còn nhiều khó khăn; trang thiết bị, thuốc men của ngành y tế chưa đáp ứng yêu cầu... nhưng những chuyển biến về văn hóa-xã hội trong những năm 1981-1985 đã từng bước tạo nên nếp sống văn hóa mới trên vùng đất căn cứ cách mạng này trong mục tiêu góp phần từng bước xây dựng nền văn hóa mới, con người mới.
Quán triệt tinh thần Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần II và III về nhiệm vụ quốc phòng - an ninh, xã thường xuyên giáo dục cán bộ, đảng viên và nhân dân địa phương ý thức bảo vệ Tổ quốc và tinh thần cảnh giác cách mạng, chống chiến tranh phá họai nhiều mặt của địch. Từ khi Luật nghĩa vụ quân sự được ban hành năm 1980, xã tăng cường công tác tuyên truyền Luật từ trong nội bộ đến nhân dân và cả trong học sinh (1) về kiến thức quốc phòng nhằm chuẩn bị điều kiện tinh thần và nhận thức cho thế hệ trẻ làm tốt nghĩa vụ quân sự, tham gia bảo vệ Tổ quốc. Nhờ đó, phong trào quốc phòng toàn dân được củng cố vững mạnh, hạn chế thấp nhất những phản ứng tiêu cực trong nhập ngũ cũng như góp phần làm tốt nghĩa vụ đối với đất nước trong thanh niên. Vì vậy, những năm trong nhiệm kỳ, kế họach giao quân cơ bản đạt chỉ tiêu trên giao. Thời gian này, nhiều cán bộ, chiến sĩ và thanh niên ở xã tham gia lực lượng quân tình nguyện làm nghĩa vụ quốc tế ở Campuchia, đã đóng góp máu xương và công sức giúp nhân dân Campuchia lật đổ chế độ diệt chủng Pôn Pốt, đồng thời góp phần bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Việc xây dựng lực lượng thường trực làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ địa bàn sẵn sàng chiến đấu được quan tâm, thường xuyên được củng cố và huấn luyện nâng cao tinh thần chức kỷ luật, trình độ phối hợp và năng lực chiến đấu, từng bước đi vào nề nếp và nâng dần chất lượng họat động. Riêng năm 1985, lực lượng quân sự xã, ấp phát triển thêm 25 đồng chí, nâng tổng số lên 56 đồng chí, riêng ban chỉ huy xã đội là 11 người.
Trong những năm 1981-1985, địch lợi dụng những khó khăn của ta về kinh tế, đời sống, nhất là sai lầm, khuyết điểm trong điều hành “giá-lương-tiền” cùng những mặt tiêu cực trong xã hội, để kích động nhân dân, làm suy giảm lòng tin của dân vào sự lãnh đạo của Đảng... Trước tình hình đó, công tác an ninh được chú trọng hơn với việc triển khai thực hiện Chỉ thị 92, Nghị quyết 128, Nghị quyết 03 về xây dựng lực lượng công an vững mạnh; công tác lãnh đạo Đảng kết hợp với phát động phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, chống chiến tranh phá họai nhiều mặt của địch cũng được tăng cường bằng những kế hoạch cụ thể về tấn công, truy quét tội phạm và các đối tượng gây ảnh hưởng đến an ninh địa bàn, nhất là trong các ngày lễ lớn, bầu cử, đồng thời với việc củng cố mô hình tổ trị an và nhiều tổ an ninh nhân dân ở mỗi ấp, kết hợp với tuyên truyền, hình thành nòng cốt an ninh trong nhân dân. Cuối năm 1985, thực hiện Nghị quyết 03 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 25 của Tỉnh ủy, xã đã tổ chức học tập trong nhân dân về phát động bảo vệ an ninh Tổ quốc. Nhờ vậy, trong những năm này, nhân dân phát hiện và cung cấp nhiều vụ việc để xã giải quyết kịp thời hoặc đưa về trên thụ lý theo qui định, góp phần giữ vững tình hình an ninh chính trị trên địa bàn.
Tăng cường công tác giáo dục chủ trương đường lối của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước, bên cạnh thường xuyên tổ chức học tập pháp luật trong cán bộ và quần chúng nhân dân ở tận xóm ấp, tập đoàn sản xuất, để phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân, xã còn thành lập ban thanh tra nhân dân, tổ chức mạng lưới thanh tra nhân dân với 42 thanh tra viên tại 18 tập đoàn sản xuất. Nhờ đó, việc giải quyết khiếu nại tố cáo được giải quyết có hiệu quả ở cơ sở, góp phần củng cố tình đoàn kết thôn xóm trong nội bộ nhân dân.
Về xây dựng bộ máy nhà nước, nhờ được tăng cường học tập và bồi dưỡng về vai trò, chức năng của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, Hội đồng nhân dân xã nhiệm kỳ 1981-1983, 1983-1985 được cải thiện về chất lượng hoạt động, từng bước đi vào họat động tốt hơn theo luật định, có tiếp túc cử tri vào các ngày qui định, thể hiện được vai trò đại biểu của dân qua việc lắng nghe, tiếp nhận ý kiến của dân để phán ánh kịp thời và giám sát họat động của Ủy ban nhân dân về kinh tế-xã hội, an ninh-quốc phòng thông qua các phong trào cải tạo nông nghiệp, thủy lợi, tuyển quân, huy động lương thực, an ninh trật tự xã hội…., bên cạnh tiếp thu ý kiến, nguyện vọng của nhân dân, kịp thời đóng góp xây dựng Đảng. Ủy ban nhân dân xã thời gian này được củng cố với 5 ban (1), thực hiện việc quản lý, điều hành và triển khai tổ chức thực hiện kế họach của Ủy ban nhân dân huyện và nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã từng bước có hiệu quả. Nhìn chung, bộ máy nhà nước với những cán bộ được trưởng thành từ phong trào cách mạng của quần chúng ở địa phương, dù còn phải tiếp tục được nâng lên về trình độ quản lý, chuyên môn nghiệp vụ nhưng đều có lập trường tư tưởng chính trị vững vàng, quan điểm và tác phong quần chúng. Họat động của bộ máy nhà nước từng bước đi vào nề nếp, thể hiện ở các mặt như chế độ hội họp, báo cáo thỉnh thị, tiếp dân, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, chính quyền quản lý và điều hành và nhân dân làm chủ... Tuy nhiên, hoạt động của Hội đồng nhân dân nhìn chung vẫn còn tính hình thức, đa số đại biểu chưa phát huy hết vai trò của đại biểu dân cử, các thành viên chuyên trách hoạt động chưa tích cực. Ủy ban nhân dân, trong chỉ đạo thực hiện, nhiều lúc vẫn còn chung chung, nhất là về cải tạo nông nghiệp. Do công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ chưa được chú trọng đúng mức nên trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chuyên môn chưa thật ngang tầm, chưa làm tốt vai trò tham mưu, đề xuất cho chi ủy, ủy ban.
Xác định vai trò quan trọng của công tác vận động quần chúng trong việc góp phần thực hiện thắng lợi nhiệm vụ kinh tế-xã hội của địa phương, chi ủy nỗ lực tập trung quán triệt trong nội bộ Đảng và ban ngành đoàn thể các chỉ thị, nghị quyết của trên, nhất là của Huyện ủy về phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Từ 1983-1985, sau khi tiếp thu Chỉ thị 53 của Ban bí thư Trung ương và Nghị quyết 07 của Tỉnh ủy và Nghị quyết của Huyện ủy Cần Đước về tăng cường công tác vận động quần chúng, chi ủy tiếp tục lãnh đạo và củng cố tổ chức Mặt trận và đoàn thể ở địa phương theo hướng mở rộng phát triển hội viên, nâng cao chất lượng nội dung sinh hoạt, nhằm phát huy vai trò nòng cốt trong việc vận động quần chúng thực hiện chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước và các phong trào cách mạng, qua đó phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân... Nhờ những nỗ lực ấy, Mặt trận và các đoàn thể từ chỗ yếu kém trong những năm 1981-1982, dần củng cố lại tổ chức (2), làm nòng cốt hướng đại bộ phận nhân dân đứng vào các tổ chức xã hội, góp phần thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị và phong trào cách mạng ở địa phương trong thời gian này như bầu cử Hội đồng nhân dân hai cấp huyện, xã nhiệm kỳ 1981-1985, tổ chức sản xuất, hợp tác hóa nông nghiệp, thủy lợi, lao động sản xuất, thâm canh tăng vụ, ứng dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật, tăng năng suất và sản lượng cây trồng, vận động mua công trái phiếu xây dựng Tổ quốc, cứu trợ, hợp tác xã tín dụng, rèn luyện nếp sống mới, gửi sổ vàng tiết kiệm, sinh đẻ có kế họach, nghĩa vụ quân sự, phong trào quốc phòng toàn dân và bảo vệ an ninh Tổ quốc, ủng hộ chiến sĩ tiền tuyến, đóng góp xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền... Nhìn chung, dù đạt được những kết quả nhất định trong công tác vận động quần chúng nhưng hoạt động của Mặt trận và đoàn thể thời gian này còn nhiều yếu kém, cả về tổ chức và hoạt động. Trừ Đoàn Thanh niên, các tổ chức khác vừa thiếu nhân sự để bố trí dẫn tới hầu như có thời gian không hoạt động (như Nông dân) vừa không chủ động xây dựng chương trình, kế hoạch hoạt động (như Phụ nữ). Ngay cả tổ chức Đoàn Thanh niên, tuy củng cố được ban chấp hành, phát triển đoàn viên nhưng cũng chưa thành lập Hội Liên hiệp Thanh niên.
Qua các nhiệm kỳ của chi bộ xã giai đoạn 1981-1985, chi ủy luôn xác định vị trí hàng đầu của công tác xây dựng Đảng. Để củng cố lập trường, quan điểm về đường lối cách mạng, lý tưởng Cộng sản của Đảng trong toàn chi bộ và quần chúng, củng cố tính thống nhất về chính trị, tư tưởng và tổ chức thực hiện từ chi ủy đến chính quyền, ban ngành, đoàn thể và quần chúng nhân dân, xã quán triệt các chỉ thị, nghị quyết trong thời gian này như Thông tri 26-TT-TW của Ban bí thư Trung ương Đảng và Hướng dẫn của Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy về giáo dục nâng cao phẩm chất đảng viên, Chỉ thị 03, 04, 05, 06 về chống tiêu cực, Chỉ thị 83 về phát thẻ đảng viên, Nghị quyết 8, 9 Trung ương, Nghị quyết 306 của Bộ Chính trị và các Công văn 221, 222 về công tác tự phê bình và phê bình, nhất là Nghị quyết 04 của Tỉnh ủy về xây dựng xã vững mạnh về mọi mặt, Nghị quyết 04 của Ban thường vụ Tỉnh ủy (4-1984) về xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đặc biệt là Chỉ thị 100 của Trung ương và các chủ trương chính sách về cải tạo nông nghiệp, công thương nghiệp. Sinh họat Đảng hàng tháng được đảm bảo đúng lệ kỳ, kỷ cương, nề nếp, có nội dung về đánh giá, đề ra phương hướng trên tinh thần đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình. Việc kiểm tra theo tinh thần Chỉ thị 34/TW được tiến hành thường xuyên và kịp thời, đã góp phần chỉnh đốn những sai lầm và biểu dương ưu điểm. Vì vậy, ý thức tổ chức kỷ luật của đảng viên trong chi bộ được giữ vững, không có đảng viên nào thoái hóa biến chất trong thời gian này. Hầu hết các đảng viên đều được phân công nhiệm vụ. Trong công tác cán bộ, để đáp ứng yêu cầu tình hình nhiệm vụ mới, cấp ủy qui hoạch các cán bộ đảng viên trẻ cho ba chức danh chủ chốt theo hướng qui họach đến năm 1990. Đến năm 1985, đảng viên chi bộ xã phát triển lên 22 đồng chí, trong đó, chi ủy có 5 đồng chí trẻ và đều được bồi dưỡng chương trình lý luận của Trường Đảng tỉnh. Có thể nói rằng, dù còn hạn chế do điều kiện lịch sử, nhưng với kinh nghiệm thực tiễn và trưởng thành qua phong trào, sự am hiểu sâu sắc địa bàn cơ sở cũng như được bồi dưỡng, tập huấn các chương trình dài hạn, ngắn hạn ở Trường Đảng về chính trị và chuyên môn, các đồng chí trong chi ủy, chi bộ đã hoàn thành tốt vai trò lãnh đạo ở địa phương trong thời gian này.
5 năm thực hiện nghị quyết của hai nhiệm kỳ đại hội chi bộ, nghị quyết lần II và III của Đảng bộ huyện trong thời kỳ 5 năm thực hiện kế họach Nhà nước giai đoạn 1981-1985 và 4 năm thực hiện Nghị quyết 04 của Tỉnh ủy, Phước Tuy đã giành được những thành quả cơ bản.
Về kinh tế, bằng các biện pháp thủy lợi, cải tạo đất, ứng dụng khoa học kỹ thuật, tăng diện tích lúa hai vụ, sản xuất nông nghiệp đã có bước chuyển biến quan trọng, từ năm 1980 đến năm 1985, diện tích tăng vụ từ 10 ha tăng lên 40 ha, năng suất tăng từ 2,8 tấn/ha lên 3, 2 tấn /ha, bình quân lương thực đầu người cũng tăng gấp hai lần, từ 194 kg/người lên 380 kg/người, sản lượng lương thực cũng tăng gấp đôi. Công tác cải tạo xã hội chủ nghĩa trên lĩnh vực nông nghiệp và công thương nghiệp hoàn thành với 18/18 tập đoàn sản xuất và hệ thống hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng và cửa hàng bán lẻ ở một số ấp, đáp ứng yêu cầu nhu yếu phẩm và hàng hóa cho dân. Đường sá, cầu cống từng bước được củng cố sửa chữa bước đầu đáp ứng nhu cầu đi lại, giao thương, nhất là hệ thống thủy lợi và các công trình phúc lợi xã hội khác như trạm y tế, trường học được xây dựng ... đã tạo nên bộ mặt nông thôn mới.
Về văn hóa-xã hội, trường học và đội ngũ giáo viên liên tục được xây dựng, củng cố và bổ sung, dần đáp ứng số lượng học sinh ngày càng nhiều, cùng với các chương trình xóa mù, bổ túc văn hóa tiếp tục được thực hiện, mạng lưới y tế cơ sở được quan tâm, vệ sinh phòng dịch được thực hiện, họat động truyền thanh, chiếu phim lưu động, văn nghệ quần chúng góp phần phục vụ nhu cầu hưởng thụ văn hóa nhân dân. Gia đình chính sách và các đối tượng xã hội khác nhận được sự tri ân và quan tâm thiết thực của hệ thống chính trị và toàn xã hội.
Trong điều kiện hết sức khó khăn và phức tạp của tình hình chiến tranh biên giới Tây Nam và âm mưu phá hoại thời hậu chiến của các thế lực thù địch, tình hình an ninh - quốc phòng ở xã được giữ vững ổn định, đồng thời với làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, nghĩa vụ quốc tế. Hệ thống chuyên chính vô sản từ buổi đầu nhiều bỡ ngỡ, thiếu kinh nghiệm quản lý kinh tế - xã hội, đến nay, từ nền tảng của thế hệ đi trước, một đội ngũ kế cận được bồi dưỡng, thử thách, trui rèn và bổ sung để nối tiếp thế hệ cha anh gánh vác nhiệm vụ trong giai đọan mới. Đó là kết quả lãnh đạo của Huyện ủy Cần Đước, mà trực tiếp là chi bộ Đảng địa phương, tinh thần đoàn kết nội bộ, nhiệt tình cách mạng và sức mạnh tổng hợp của nhân dân trên vùng đất có truyền thống cách mạng này. Tuy nhiên, do điều kiện chủ quan thuộc về con người và những vấn đề thuộc về lịch sử, nhất là sức ỳ và những cản ngại, ràng buộc thuộc về cơ chế quản lý kinh tế lúc bấy giờ và cũng từ xuất phát thấp của nền kinh tế, thực tiễn giai đọan này đã chỉ ra những tồn tại và khó khăn mà toàn hệ thống Đảng, chính quyền và đoàn thể sẽ phải đối mặt và khắc phục trong việc thực hiện nhiệm vụ về sau. Do chưa được cải tạo, diện tích đất canh tác lúa một vụ còn chiếm tỉ lệ lớn, mặt khác, việc qui họach cụ thể cơ cấu cây trồng, vật nuôi, ngành nghề cũng chưa được thực hiện nên chưa khai thác hiệu quả tiềm năng kinh tế của địa phương mà chủ yếu là tiềm năng đất đai. Trong cơ cấu nông nghiệp, vẫn còn độc canh cây lúa, chưa có nhiều mô hình chuyển đổi để phát huy tối đa thế mạnh của địa phương. Cải tạo xã hội chủ nghĩa, nhiều lúc còn chủ quan nóng vội, trong khi ý thức về làm ăn tập thể của bà con nông dân còn nhiều hạn chế và cán bộ quản lý điều hành ở tập đoàn còn yếu, chưa chú trọng đúng mức việc xã viên, tập đoàn viên làm kinh tế gia đình. Mô hình tập đoàn sản xuất vốn có nhiều khiếm khuyết, nay trong điều kiện cụ thể ở địa phương bắt đầu xuất hiện nhiều bất cập về vấn đề quản lý và hiệu quả. Phân phối lưu thông gặp nhiều khó khăn trong việc đáp ứng đủ nhu cầu về hàng hóa. Hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng chưa đủ sức tác động đến sản xuất trong khi giá cả thị trường còn nhiều biến động. Kết cấu hạ tầng nông thôn yếu kém, chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất và phát triển. Văn hóa - xã hội chưa đáp ứng được mức hưởng thụ của nhân dân. Bộ máy chuyên chính vô sản từng bước được kiện toàn nhưng chưa đạt đến sự năng động mà tình hình chính trị đang diễn ra ngày càng nhanh chóng với đòi hỏi và yêu cầu nhiệm vụ mới hơn. 10 năm (1975-1985) thực hiện nhiệm vụ khắc phục hậu quả chiến tranh, từng bước khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế - xã hội là chặng đường vượt qua khó khăn thời hậu chiến cùng với thiên tai, lũ lụt, mất mùa, chiến tranh biên giới Tây Nam…, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện, chi bộ, chính quyền và nhân dân Phước Tuy với nhiệm vụ đặt ra qua ba kỳ đại hội đã quyết tâm phấn đấu lãnh đạo địa phương vượt qua thử thách, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng đã đề ra. Trong 10 năm ấy, trong bối cảnh của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, bằng chính sức lực và lòng quyết tâm của mình, xã đã xây dựng và kiện toàn hệ thống chính trị từ Đảng, chính quyền đến đoàn thể và các tổ chức chính trị trong quần chúng nhân dân, ổn định và giữ vững tình hình chính trị và trật tự an toàn xã hội, từng bước đầy lùi tàn dư văn hóa độc hại, làm nền tảng để vươn lên thực hiện thực hiện hoàn thành cải tạo nông nghiệp, công thương nghiệp, đẩy mạnh tăng gia sản xuất khôi phục kinh tế, hoàn thành các chỉ tiêu về kinh tế - xã hội, từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
Phước Tuy bước sang thời kỳ cách mạng mới với thực tiễn những năm 1985-1986 đặt ra là cùng cả nước tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện để đưa xã nhà bước vào thời kỳ phát triển nhanh hơn, ổn định và bền vững hơn từ nền tảng rất đáng trân trọng của thành tựu 10 năm 1975-1985.
CHƯƠNG HAI
BƯỚC VÀO THỜI KỲ ĐỔI MỚI
(1986-1996)
1. Từng bước tháo gỡ khó khăn, chuyển sang thực hiện cơ chế mới (1986 - 1990)
Sau 10 năm xây dựng và phát triển, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn. Tuy nghiên, trong khi ta vẫn còn đang thực thi chế độ quản lý kinh tế tập trung quan liêu bao cấp - một mô hình vốn đã tồn tại trước đó vài mươi năm ở miền Bắc, thì quốc tế và khu vực đang có những biến đổi to lớn, sâu sắc trước sự bùng nổ của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, cùng với những vấn đề mang tính toàn cầu cấp bách liên quan đến vận mệnh của toàn thể nhân lọai. Việc duy trì quá lâu cơ chế quản lý không còn phù hợp này đã dẫn đến khủng hoảng trên mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội, làm suy thoái tiềm lực phát triển của đất nước, mà như Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 (khóa V) đã nhận định: “ Chế độ quản lý tập trung quan liêu, bao cấp làm cho lạm phát không ngừng tăng lên, duy trì quá lâu cơ chế phân phối hiện vật với giá quá thấp đến mức gần như cho không và diện cung cấp mở rộng. Tiền lương không còn ý nghĩa kích thích lao động sản xuất. Do thực hiện theo cơ chế quản lý hành chánh cung cấp và bao cấp, nên phải phân phối theo chế độ tem phiếu, và càng kéo dài chế độ tem phiếu và thu mua sản phẩm theo giá chỉ đạo thì tình trạng thiếu hàng ngày càng trầm trọng hơn, bởi vì sản xuất càng bị thu hẹp, giảm sút nặng nề hơn” (1). Trong bối cảnh đó, sự lựa chọn con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của cách mạng Việt Nam với nhận thức một cách toàn diện về chủ nghĩa xã hội, cũng như cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa đang phát triển trên đất nước ta với những đặc điểm mới, những hình thức, bước đi, biện pháp thích hợp và đổi mới cơ chế quản lý kinh tế đất nước là một yêu cầu tất yếu lịch sử.
Từ ngày 15 đến 18-12-1986, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI Đảng Cộng sản Việt Nam được tiến hành, với tinh thần mạnh dạn nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng thực trạng của đất nước, đã xác định đúng mục tiêu và nhiệm vụ cách mạng trong chặng đường trước mắt, đề ra chủ trương, chính sách đúng để xoay chuyển tình thế, đưa đất nước vượt qua khó khăn tiến lên phía trước, với nhiệm vụ chung của chặng đường quá độ là “quyết tâm đem hết tinh thần và lực lượng tiếp tục thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa” (2).
Đại hội VI của Đảng là đại hội có ý nghĩa lịch sử mở đầu công cuộc đổi mới của đất nước. Trên tinh thần ấy, Đảng bộ tỉnh Long An đã xác định nhận thức và hành động trong toàn đảng bộ và toàn dân trong giai đọan 1986-1990 là: “…đổi mới toàn diện, từ suy nghĩ đến cách làm nhằm khai thác mọi tiềm năng, mọi vốn liếng có được để phát triển sản xuất, ổn định và cải thiện đời sống; đồng thời tích cực xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, khẩn trương thực hiện cơ chế hạch toán kinh tế, kinh doanh xã hội chủ nghĩa. Thực hiện quyền tự chủ cho cơ sở sản xuất kinh doanh, phấn đấu đạt năng suất, chất lượng và hiệu quả cao trong mọi hoạt động kinh tế xã hội” (3).
Quán triệt những nhận thức mới từ nhiều hội nghị của Ban chấp hành Trung ương khóa V, các chủ trương của Tỉnh ủy Long An ban hành, Đảng bộ huyện Cần Đước tại đại hội IV nhiệm kỳ (1986-1988), đã đề ra các nhiệm vụ quan trọng để thực hiện mục tiêu chung trong thời kỳ này là: xóa bỏ cơ chế quan liêu bao cấp, bước đầu thực hiện cơ chế quản lý kinh tế mới và xây dựng cơ cấu kinh tế nông - ngư -công nghiệp; đổi mới công tác cán bộ, kiện tòan cấp ủy Đảng, chú trọng công tác quần chúng và tăng cường an ninh - quốc phòng.
Phước Tuy bước vào thực hiện công cuộc đổi mới trong điều kiện được quán triệt các nghị quyết Đại hội Đảng tòan quốc lần thứ VI, Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ IV và Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ IV. Đó là yếu tố có tính đảm bảo để xã có hướng phấn đấu cho việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Cùng với thành quả đạt được trên các mặt, bộ máy Đảng, chính quyền được rèn luyện qua thử thách trong những năm khó khăn của thời kỳ quản lý tập trung quan liêu bao cấp. Trong bối cảnh ấy, quan điểm đổi mới của Đảng tạo ra niềm tin và tinh thần phấn khởi trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, nhất là từ sau khi có sự xác định thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn về lương thực - thực phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu. Là địa bàn căn cứ cách mạng còn rất nhiều khó khăn, xã được sự quan tâm chỉ đạo của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân, sự hỗ trợ của các ban ngành, đoàn thể huyện. Tuy nhiên, tác động của cuộc khủng hoảng chính trị khi hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu bị tan rã, các thế lực thù địch lợi dụng tình hình trên xuyên tạc chống phá cách mạng Việt Nam, hậu quả của khủng hoảng kinh tế của những năm trước đó vẫn còn trầm trọng, cùng cơ sở vật chất còn nghèo nàn và thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp, giá cả thị trường biến động ... thực sự là thử thách không nhỏ đối với nhiệm vụ sắp tới của địa phương.
Trong bối cảnh tình hình trên, từ năm 1985 đến 1990, chi bộ Phước Tuy tiến hành ba kỳ đại hội chi bộ cơ sở, gồm các nhiệm kỳ 1985-1986, 1987-1988 và 1989-1990. Trong suốt những năm đầu bước vào thời kỳ đổi mới, trên tinh thần tiếp tục phát huy thành quả đạt được trong việc thực hiện Nghị quyết 4 của Tỉnh ủy về xây dựng xã vững mạnh, chi bộ luôn xác định thế mạnh căn bản và là mặt trận hàng đầu của xã là nông nghiệp. Vì vậy, phương hướng chủ đạo về kinh tế luôn là nỗ lực mở rộng diện tích sản xuất lúa để góp phần giảm căng thẳng về lương thực và đóng góp lương thực cho Nhà nước. Trên cơ sở đó và căn cứ vào thuận lợi và khó khăn ở địa phương, xã đề ra phương hướng cho giai đọan này là: tiếp tục cải tạo, phát triển kinh tế nông nghiệp, ứng dụng hiệu quả khoa học kỹ thuật vào nông nghiệp, điều phối lực lượng lao động..., tập trung lãnh đạo mở rộng diện tích sản xuất, kết hợp chặt chẽ tiềm năng đất đai và lao động nhằm thúc đẩy sản xuất phát triển; từng bước phát triển tiểu thủ công nghiệp; căn cứ vào tình hình đất đai và lao động để thực hiện 3 chương trình kinh tế lớn mà Đảng đề ra là giải quyết lương thực, thực phẩm và hàng tiêu dùng; xây dựng nền văn hóa mới, nâng cao trình độ, nhận thức của nhân dân về đường lối đổi mới của Đảng; giữ gìn an ninh trật tự và làm nghĩa vụ đối với Nhà nước, củng cố hệ thống chính trị.
Một số nhiệm vụ cũng được đặt ra trên các lĩnh vực trong giai đoạn 1986-1990 là:
- Tập trung cho nhu cầu sản xuất nông nghiệp, mở rộng diện tích lúa Hè Thu, ổn định sản lượng lúa mùa và Đông Xuân để từng bước ổn định đời sống nông dân; tạo mọi điều kiện để phát triển ngành nghề và chăn nuôi của kinh tế hộ gia đình, bên cạnh hoàn thiện cơ chế khoán cho các tập đoàn sản xuất; tổ chức lại sản xuất theo hướng có hiệu quả.
- Nhanh chóng hình thành cơ cấu kinh tế ở địa phương là nông - ngư - tiểu thủ công nghiệp nhằm tranh thủ nguồn đầu tư và ứng dụng biện pháp khoa học kỹ thuật đồng bộ để sản xuất nông sản theo hướng xuất khẩu.
- Nỗ lực cân bằng trong phân phối lưu thông về hàng hóa và tiền tệ để đáp ứng nhu cầu tiêu dùng và sản xuất; làm tốt công tác quản lý thị trường, tiếp tục mở rộng mạng lưới thương nghiệp theo hướng có chất lượng và hình thức phù hợp.
- Tích cực vận động quần chúng phát huy quyền làm chủ tập thể trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ chính trị, kinh tế - xã hội thông qua kiện toàn và nâng cao chất lượng lực lượng làm công tác vận động quần chúng.
- Làm tốt vai trò của cấp ủy và chính quyền trong việc hoàn thành các nhiệm vụ ở địa phương, nhất là trong khâu lãnh đạo và điều hành, làm tốt công tác phát triển Đảng, công tác qui hoạch, đào tạo cán bộ; xây dựng quy chế làm việc với tinh thần thật sự linh động và sáng tạo trên nguyên tắc giữ gìn kỹ cương trong Đảng; làm tốt công tác bảo vệ an ninh chính trị và quốc phòng địa phương.
Những giải pháp và chỉ tiêu cụ thể cũng được đặt ra đến năm 1990.
Về kinh tế:
- Kết hợp kinh tế hộ gia đình và kinh tế tập thể, đưa diện tích lúa Hè Thu lên 380 ha, năng suất 4,5 tấn/ha, Đông Xuân, 3,8 tấn/ha và diện tích lúa mùa là 569 ha, năng suất 4 tấn/ha, tổng sản lượng là 5.676 tấn, bình quân lương thực đầu người là 480-500 kg/ năm. Diện tích trồng dừa: 17 ha, mía: 50ha, cây lác nguyên liệu: 20 ha, mỗi hộ trồng 5 cây dừa và vận động trồng đại trà ven sông Vàm Cỏ.
- Bên cạnh chú trọng phát triển chăn nuôi heo, trâu, dê và gia cầm, nhất là nuôi heo trong hộ gia đình, qui hoạch sông Cầu Hàn làm khu vực nuôi trồng thủy sản, thực hiện mô hình V.A.C.
- Củng cố kiện toàn các tập đoàn sản xuất theo hướng hoàn thiện cơ chế khoán, chủ động mở rộng sản xuất ở cơ sở II với diện tích đất canh tác mỗi tập đoàn từ 20-30 ha và có 10 hộ định cư ở cơ sở III.
- Xây dựng cơ sở mộc, dệt chiếu, ép đường phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế địa phương.
- Hoàn thành kênh xả phèn N8, tu sửa các tuyến đường và các cây cầu theo các tuyến giao thông chính trong xã.
- Thực hiện tốt tinh thần Nghị quyết 8/TW về giá - lương - tiền. Hợp tác xã mua bán quản lý và mua bán tốt mặt hàng phục vụ nhân dân.
Về văn hóa - xã hội:
- Xây dựng đài truyền thanh và bia truyền thống. Trên cơ sở qui hoạch tổng thể, qui hoạch khu văn hóa, kinh tế, khu hành chính và khu nghĩa trang nhân dân. Từng bước qui hoạch lại khu dân cư theo tuyến đường chính và theo qui hoạch tổng thể, có kế hoạch dẫn điện về xã phục vụ cho sản xuất.
- Tỉ lệ phát triển dân số là 1,8%
- Phổ cập văn hóa trong dân hết cấp I. 50% cán bộ hết cấp III. Kiên cố hóa trường học và xây dựng trường cấp II.
Về xây dựng Đảng, chính quyền:
- Đưa 2/3 dân số vào các tổ chức đoàn thể quần chúng.
- Thành lập Đảng bộ với 5 chi bộ cơ sở.
Những nhiệm vụ và mục tiêu cụ thể trên đặt ra cho xã trong giai đoạn này thực sự là một bài toán không hề đơn giản trong giai đoạn giao thời của sự chuyển đổi cơ chế. Tuy nhiên đây cũng là thời gian địa phương bắt đầu được tác động thuận lợi từ một số chủ trương về đầu tư, khuyến khích thúc đẩy sản xuất kinh doanh, về tháo bỏ những cơ chế ràng buộc không còn phù hợp về lưu thông lương thực, hàng hóa, vật tư nông nghiệp. Việc từng bước cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất có tác động tích cực đến tinh thần sản xuất trong nhân dân. Bộ máy được tổ chức tinh gọn hơn và hiệu quả hơn. Dù vậy, vấn đề tranh chấp đất đai, ruộng đất nổi lên như là một trong những bức xúc xã hội, trong khi đó việc giải quyết còn nhiều bất cập, kéo dài...
Trong điều kiện ấy, Phước Tuy đã nỗ lực khắc phục khó khăn để hoàn thành nhiệm vụ trên từng lĩnh vực trong những năm đầu đổi mới.
Về kinh tế nông nghiệp, trước yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý kinh tế nông nghiệp và tình hình bất hợp lý về khoán đất và phân phối sản phẩm trong các tập đoàn sản xuất nông nghiệp làm cho mô hình tập đoàn sản xuất ở huyện trong thời gian này có nguy cơ tan rã, sau khi rút kinh nghiệm ở xã Long Định, Huyện ủy ra Nghị quyết 08 (1) nhằm củng cố hợp tác hóa nông nghiệp theo tinh thần đổi mới của Trung ương, đồng thời phát động cuộc vận động nhường cơm xẻ áo. Cách làm này đã làm cho nông dân ở Phước Tuy an tâm hơn trong sản xuất. Cùng với thực hiện giải pháp về cơ chế, việc lưu thông vật tư nông nghiệp thời gian này cũng thuận lợi hơn, cung cấp phân bón cho đồng ruộng kịp thời, khoa học kỹ thuật được chú trọng, nhiều giống lúa ngắn ngày, kháng sâu bệnh, cho năng suất cao được sử dụng nhiều hơn.
Những năm 1986-1987, xã có 16 tập đoàn sản xuất/18 tập đoàn sản xuất. Đóng vai trò quan trọng nhất định trong lịch sử, nhưng như tình hình chung lúc bấy giờ, các tập đoàn sản xuất ở Phước Tuy về sau làm ăn ngày càng không hiệu quả và bộc lộ nhiều hạn chế về con người, về tổ quản lý và điều hành, tổ chức thực hiện ăn chia theo tinh thần Chỉ thị 100/TW giữa tập đoàn với tập đoàn viên, giữa tập đoàn với xã..., cùng với những phức tạp nảy sinh không được làm rõ về tiêu cực, chiếm dụng, nợ thuế vật tư... gây mất lòng tin trong nhân dân. Trước tình hình đó, xã chủ trương tổ chức đại hội công khai để hóa giá ăn chia tài sản hiện có, chờ khi Nhà nước có chủ trương phù hợp sẽ tổ chức làm ăn theo mô hình mới phù hợp hơn và có lợi. Tuy nhiên, đến cuối năm 1990, do nhiều nguyên nhân, đại hội công khai cũng chỉ tổ chức được 2 tập đoàn /16 tập đoàn. Dù vậy, kinh tế tập thể trong nông nghiệp ở Phước Tuy với mô hình tập đoàn sản xuất trên thực tế chính thức bị phá vỡ từ năm 1987 và bị giải thể hoàn toàn trong những năm 1990-1991, kết thúc vai trò lịch sử do không còn phù hợp, nhường chỗ cho mô hình mới: kinh tế hộ gia đình.
Đây cũng là thời gian tình hình thưa kiện, tranh chấp diễn ra dưới nhiều hình thức, nhiều cấp độ, chủ yếu là đất nhường cơm xẻ áo thời kỳ quân quản và xây dựng tập đoàn sản xuất, còn lại là đất thuê mướn, đất mua bán, đất sang nhượng, đất phục hóa, đất tương phân của thân tộc... Trước tình hình đó, xã kết hợp với huyện chủ động xác minh, nắm rõ và công khai trước dân và những nông dân cốt cán, am hiểu về đất đai ở địa phương, từ đó “lấy nông dân để giải quyết nông dân” gắn với chủ trương tự thương lượng. Nhờ vậy đã giải quyết có hiệu quả vấn đề phức tạp này, tạo sự đoàn kết trong nội bộ nông dân nói riêng, trong nhân dân nói chung, đảm bảo ổn định sản xuất (1). Việc tổ chức đăng ký ruộng đất để cấp quyền sử dụng đất tiến hành từ năm 1990 nhanh chóng được nhân dân hưởng ứng (2).
Những nỗ lực trên trong việc cởi bỏ dần cơ chế không còn phù hợp với tình hình mới đã đem lại phấn khởi cho người nông dân đồng thời cũng giải phóng và phát huy năng lực xã hội trong lao động và sản xuất nông nghiệp. Cùng với đổi mới về cơ chế, thời gian này, xã chú trọng nhiều biện pháp thúc đẩy phát triển sản xuất như mở rộng diện tích đất canh tác, cải tạo đồng ruộng, tăng cường bón phân hữu cơ, áp dụng và đầu tư khoa học kỹ thuật vào sản xuất để phát triển kinh tế hộ gia đình, ứng dụng các kỹ thuật phòng trị bệnh trong nuôi trồng, sử dụng các giống lúa ngắn ngày kháng sâu bệnh, cho năng suất cao, loại bỏ các giống lúa truyền thống vừa dài ngày lại năng suất thấp. Ngoài ra, trong nỗ lực từng bước phát triển mô hình kinh tế hộ gia đình, xã tổ chức học tập kinh nghiệm ở các địa phương khác để trồng thử nghiệm một số loại cây có kinh tế cao như: dừa, điều, táo, thanh long...
Chú trọng công tác thủy lợi, xã đề ra nghị quyết thực hiện nhiều công trình thủy lợi nội đồng, nạo vét tu sửa các con kênh hiện có. Dù tình hình biến động về ruộng đất trong giai đoạn mô hình tập đoàn sản xuất làm ăn kém hiệu quả ít nhiều ảnh hưởng đến công tác này, nhưng năm 1986, xã huy động lao động công ích có hiệu quả, thi công hoàn thành kênh 30-4 (3). Nỗ lực trên cùng với tác dụng của các công trình thủy lợi trước đó, nhất là đập Bến Trễ đã góp phần đưa diện tích gieo trồng trong những năm 1989-1991 tăng lên và ổn định là 1.370 ha với tổng sản lượng và năng suất đều tăng (4). Cây màu chưa phát triển do đất vẫn còn ảnh hưởng của phèn, mặn. Cây mía cũng không trồng đạt diện tích như kế hoạch do giá cả không thuận lợi.
Về tổ chức giản lao động, từ 1989-1991, xã vận động và tổ chức 198 hộ với 265 nhân khẩu đi sản xuất và ổn định đời sống ở cơ sở II Đồng Tháp Mười.
Thời gian này huyện mở rộng đầu tư gia công, dịch vụ thú y, con giống, thức ăn, cùng mạng lưới cửa hàng thuốc thú ý, thức ăn gia súc, gia cầm được hình thành ở thị trấn và những xã có nhiều đàn gia súc gia cầm, công tác tiêm phòng, quản lý gia súc, gia cầm bị dịch bệnh được quan tâm hơn... Mặt khác, từ khi có chủ trương mới về việc giao khoán đất, nông dân có phần tích lũy lương thực cho chăn nuôi. Các yếu tố đó làm cho tình hình chăn nuôi trong những năm 1989-1991 phát triển trở lại, nhất là chăn nuôi heo và đàn gia cầm. Trừ năm 1990 do ảnh hưởng của thất mùa lúa và giá cả thức ăn tăng nhanh, trung bình mỗi nhà nuôi từ 1-2 con heo và 10 con gà, vịt. Đàn trâu không tăng và có xu hướng giảm do sức kéo này được thay dần bằng máy cày.
Về tiểu thủ công nghiệp, tuy xã có nhiều lao động có tay nghề nhưng do địa bàn vùng sâu với điều kiện giao thông còn hạn chế và vốn ít nên đa số đi làm thuê cho các cơ sở ngoài địa bàn. Đến năm 1991, toàn xã có 3 nhà máy xay xát, 1 lò đường, 3 cơ sở mộc gia dụng, quán tiệm có qui mô vừa, số còn lại có qui mô nhỏ không đáng kể, chủ yếu sử dụng nguồn lao động trong phạm vi gia đình. Từ năm 1989, các cơ sở tiểu thủ công nghiệp ở thị trấn Cần Đước thu hút khoảng 100 hộ với hàng trăm lao động ở Phước Tuy gia công các sản phẩm dệt chiếu và dệt thảm đay xuất khẩu, giải quyết đáng kể số lao động không việc làm và nhàn rỗi ở địa phương. Nhưng tình hình trên chỉ kéo dài đến sau 1991 do các cơ sở ở thị trấn gặp khó khăn đầu ra sản phẩm, một số bị giải thể.
Về kinh doanh, cũng như mô hình tập đoàn sản xuất trong nông nghiệp, vai trò quốc doanh trong họat động kinh doanh với mô hình hợp tác xã mua bán và hợp tác xã tín dụng dù đóng vai trò tích cực với những thành quả trong giai đoạn 10 năm sau ngày giải phóng của nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp, đến giai đoạn này đã bộc lộ nhiều hạn chế và bất cập về cơ chế quản lý, năng lực kinh doanh của cán bộ, cùng với tình trạng “lỗ thật lãi giả”, thất thoát tài sản hàng hóa... làm mất lòng tin trong nhân dân, dẫn đến tan rã vào năm 1990. Trước tình hình đó, xã chủ trương đại hội xã viên để công khai quỹ và nợ, hoàn vốn cổ phần. Kinh tế tập thể trong kinh doanh chính thức bị phá vỡ, nhường chỗ cho kinh tế hộ cá thể. Tuy nhiên, tình hình cơ sở tư nhân bắt đầu bung ra nhưng chưa nhiều và ổn định, quy mô chưa lớn cho thấy lĩnh vực này đã đến lúc cần được tháo bỏ những cơ chế ràng buộc để tạo sự thông thoáng, đáp ứng yêu cầu phát triển.
Về tài chính-ngân sách những năm 1988-1990, do sự phá vỡ hàng lọat hợp tác xã tín dụng mua bán và các công ty xí nghiệp quốc doanh, tình hình tài chính, tiền tệ, ngân sách bị ảnh hưởng nặng nề, cấp xã gặp rất nhiều khó khăn. Nguồn thu của Phước Tuy chủ yếu là nông nghiệp, các nguồn thu khác hỗ trợ không đáng kể, trong khi năm 1990 bị thất mùa nặng, đời sống nhân dân gặp nhiều khó khăn. Việc cân đối trở nên hết sức nan giải trong thời gian này. Tuy nhiên, do xã trở thành một đơn vị dự toán ngân sách nên có thuận lợi là huyện tập trung các nguồn thu dự chi hợp lý nên lương và hoạt động phí được đảm bảo, nhưng lại không chủ động các khoản chi đột xuất như cứu tế, hội nghị...
Dựa vào phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn và xây dựng công trình phúc lợi thời gian này có những chuyển biến quan trọng. Từ năm 1989, xã tiến hành trải sỏi đỏ hương lộ 21 từ Cầu kênh 30-4 đến Cầu Hàn, xây dựng 3 cây cầu bắc qua sông Bến Trễ và sông Cần Đước nối liền các ấp trong xã với xã bạn (1), phục hồi con lộ Bót nối hương lộ 21 ở ấp 5 đến cầu Bà Cai ở ấp 6 và giáp xã Tân Ân với chiều dài trên 3.000 m, hoàn toàn do sức dân. Tất cả đã cải thiện hiệu quả điều kiện đi lại, sản xuất và giao thương so với tình hình trước đây. Sau thời gian kiên trì đề xuất trước tình hình trạm y tế xuống cấp nghiêm trọng, năm 1991, thiết kế mới của trạm với nền gạch tàu, vách cây, mái ngói với tổng kinh phí dự toán trên 12 triệu đồng được hoàn thành và tiến hành xây dựng. Đặc biệt, năm 1990, mạng lưới điện trung thế 15 KV được phát triển về Phước Tuy, từ khu vực Cầu kênh 30-4 đến trung tâm xã với chiều dài 2.400m, lắp đặt 5 máy biến thế, tổng dung lượng 115 KVA (tổng kinh phí 52 triệu đồng do nhân dân đóng góp hoàn toàn) đã phục vụ cho khoảng 360 hộ dân. Ngoài ra, nhân dân ấp 6 (thuộc khu vực tập đoàn 5 trước đây), ấp 7 (thuộc khu vực tập đoàn 14 trước đây) còn tự kéo điện về phục vụ cho 75 hộ, nâng tổng số hộ sử diện điện toàn xã lúc này lên 435 hộ (33%). Điện khí hóa nông thôn phục vụ nhu cầu đời sống, sinh hoạt và sản xuất được hiện thực hóa trên vùng đất căn cứ cách mạng xưa đã đem đến niềm phấn khởi, tạo thêm động lực và niềm tin tưởng lớn lao trong mọi tầng lớp nhân dân vào công cuộc đổi mới ở địa phương dưới sự lãnh của của Đảng.
Công tác qui họach dân cư trong thời gian này chủ yếu được tiến hành theo các khu vực có trục giao thông, bờ đê, cụm dân cư và mạng lưới điện. Công tác qui họach cũng gặp một số khó khăn do xuất hiện những vấn đề mới tiêu cực, cần tăng cường công tác quản lý về sau này, nhất là tình hình sang nhượng, mua bán và chuyển mục đích sử dụng đất (tôn nền) trái phép (1).
Mạng lưới điện về Phước Tuy kéo theo sự gia tăng về phương tiện thông tin như video, radio cassette, truyền hình, sách, báo, phim ảnh..., góp phần nâng dần mức hưởng thụ về văn hóa của người dân (2). Cùng với hệ thống truyền thanh, các phương tiện thông tin trên góp phần phổ biến chủ trương chính sách pháp luật của Đảng và Nhà nước đến nhân dân nhanh hơn, hiệu quả hơn. Tuy nhiên cũng có thể thấy rằng, cùng với phương tiện và mức hưởng thụ về văn hóa được nâng lên, văn hóa không lành mạnh và nhiều tệ nạn xã hội khác cũng theo đó mà trỗi dậy, ít nhiều ảnh hưởng đến lối sống văn hóa, trong khi địa phương chưa xây dựng được công trình, tụ điểm văn hóa phục vụ nhân dân và phong trào văn nghệ quần chúng còn mang tính tự phát, bó hẹp trong phạm vi là các nhóm văn nghệ phục vụ trong đám tiệc và các ngày lễ.
Đến thời điểm 1988-1989, tình hình trường lớp vẫn còn rất nhiều khó khăn về cơ sở vật chất, điều kiện dạy và học, vẫn còn tình trạng 3 ca, phải tận dụng cơ sở tín ngưỡng như đình, chùa để phục vụ cho đối tượng mẫu giáo và lớp 1. Sang năm 1990-1991, sau khi tách trường cấp II, xã xây dựng 4 phòng học kiên cố và cải tạo nâng cấp điều kiện học tập, tình hình giáo dục có chuyển biến tích cực, xóa tình trạng học 3 ca, chất lượng dạy và học được nâng lên, giáo viên ổn định và an tâm công tác, mối quan hệ giữa gia đình và nhà trường gắn chặt hơn. Đến năm 1991, xã có 36 lớp, 47 giáo viên, trong đó cấp I là 27 lớp, mẫu giáo là 2 lớp, còn lại là cấp II. Công tác thu bảo trợ để tu sửa trường học, mua sắm bàn ghế, dụng cụ học tập chưa đạt do điều kiện kinh tế của nhân dân còn nhiều khó khăn.
Dù cơ sở vật chất và trang thiết bị dụng cụ y tế còn hạn chế và thiếu thốn ít nhiều ảnh hưởng đến công tác khám và điều trị nhưng việc tuyên truyền vận động phong trào vệ sinh phòng dịch và vệ sinh môi trường trong nhân dân, phòng chống các bệnh lây lan truyền nhiễm, tiêm chủng mở rộng được tiến hành rất tốt (1), đã góp phần tăng cường dần ý thức trong nhân dân và ngăn ngừa 6 bệnh truyền nhiễm ở trẻ em.
Quan tâm thực hiện chính sách đối với gia đình thương binh liệt sĩ, cán bộ về hưu, gia đình có công với cách mạng, ngoài việc hoàn thành tốt nhiệm vụ về chính sách, xã thường xuyên tìm hiểu đời sống và kịp thời đề nghị về trên cứu tế các đối tượng gặp khó khăn, già yếu, neo đơn, hậu phương quân đội..., tổ chức họp mặt, thăm viếng, tặng quà, viếng mộ liệt sĩ trong các dịp lễ tết. Xã còn kết hợp với huyện qui tập 9 hài cốt liệt sĩ về nghĩa trang liệt sĩ huyện, đề xuất về trên xây dựng 2 căn nhà tình nghĩa. Tuy nhiên, việc phát động thành phong trào trong nhân dân về công tác này chưa mạnh. Sau mùa lúa năm 1990 gặp nhiều tổn thất, xã kịp thời phối hợp với trên cứu tế lương thực đột xuất cho 66 hộ với 259 nhân khẩu. Trong điều kiện của một địa phương có kinh tế chính là nông nghiệp nhưng đất sản xuất tương đối ít trong khi lao động thừa quá lớn, tiềm lực và khả năng của các ngành khác để giải quyết lao động thừa còn rất hạn chế, nên giải pháp giải quyết việc làm và lao động ở Phước Tuy lúc này chủ yếu vẫn là vận động đi sản xuất và lập nghiệp ở Đồng Tháp Mười.
Thực hiện công cuộc đổi mới ở địa phương giai đoạn 1986-1991 trong điều kiện đời sống nhân dân vẫn còn khó khăn do tình hình khách quan như thất mùa, những vấn đề tồn tại về kinh tế - xã hội bởi hệ quả của những năm tháng bức bối và ràng buộc của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, nhưng với cơ chế mới trong quản lý kinh tế, sự chỉ đạo sát sao của huyện bằng nhiều giải pháp đồng bộ trên tất cả các mặt, với nỗ lực và chủ động trong điều kiện cụ thể của mình, Phước Tuy đã quán triệt và thực hiện được nhiều công việc quan trọng, nhất là về nông nghiệp, công thương nghiệp và vấn đề ruộng đất, bước đầu tháo gỡ được một số ràng buộc về cơ chế, tạo động lực phát triển trong những năm đầu đổi mới ở địa phương. Việc quyền sử dụng đất được xác lập đã làm cho người nông dân yên tâm tập trung mọi điều kiện và năng lực cho sản xuất đã tạo ra nhiều lương thực cho xã hội và tích lũy để phát triển kinh tế gia đình. Cùng với các công trình xây dựng kết cấu hạ tầng và phúc lợi được xây dựng làm bộ mặt của nông thôn từng bước thay đổi, đời sống nhân dân từng bước được ổn định. Một vấn đề nữa nổi lên về kinh tế trong cơ chế mới là những người có tư liệu sản xuất, vốn và kinh nghiệm có xu thế phát huy, trong khi ngược lại với đối tượng ít vốn. Đến thời điểm 1991, xã có 10% hộ có mức sống trên trung bình, 50% hộ có mức sống trung bình và 40% là nghèo và khó khăn.
Những tồn tại trong quá trình thực hiện cơ chế mới cũng bắt đầu bộc lộ, mà nổi rõ nhất là nhận thức của một bộ phận cán bộ, đảng viên còn chưa đúng đắn so với quan điểm đổi mới; chế độ chính sách và tiền lương chưa trở thành động lực để thúc đẩy năng suất lao động xã hội; tranh chấp ruộng đất với tính chất phức tạp của nhiều vụ việc làm cho việc giải quyết gặp rất nhiều khó khăn trong việc đáp ứng thỏa đáng, gây thắc mắc, hoài nghi trong nhân dân.
Cùng với tác động tích cực của đổi mới mở cửa, các lọai văn hóa độc hại, bạo lực bên ngoài ngoài xâm nhập đã tác động tiêu cực đến một bộ phận nhân dân, nhất là giới trẻ trên một số mặt của đời sống, bên cạnh một số tập tục văn hóa lạc hậu như đồng bóng, bói toán ở vùng sâu nông thôn có dấu hiệu sống lại, trong khi khả năng và điều kiện mở rộng, phát triển sự nghiệp văn hóa mới của xã còn nhiều mặt hạn chế, chưa đáp ứng nhu cầu đời sống văn hóa ở nông thôn.
Những năm đầu đổi mới nảy sinh nhiều vấn đề về tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội. Cùng với tác động tiêu cực đến tình hình kinh tế, chính trị ở mức độ cả nước và địa phương do sự tan rã của Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu là tình hình phức tạp của tệ nạn xã hội. Các hành vi phạm pháp ngày càng tinh vi hơn mức độ khác nhau. Phần tử xấu lợi dụng việc giải quyết tranh chấp ruộng đất gặp khó khăn, kích động làm cho tình hình gay gắt và phức tạp... Trước tình hình đó, cấp ủy xã lãnh đạo quán triệt tinh thần Nghị quyết 03 của Bộ Chính trị, Chỉ thị 25 của Trung ương, đã tổ chức phát động phong trào vì an ninh Tổ quốc, bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội sâu rộng trong nhân dân. Kết hợp với đoàn thể quần chúng và các ngành khác, Công an xã triển khai công tác xây dựng xã an toàn, chủ động tổ chức mạng lưới an ninh nhân dân, tổ tự quản, tiến hành nắm hộ, nắm người, quản lý hộ tịch, hộ khẩu chặt chẽ, kịp thời phát hiện tội phạm từ nơi khác đến, nắm các đối tượng chính trị các loại ... Nhờ đó, tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được giữ vững ổn định (1).
Nhờ chi ủy tập trung lãnh đạo chính quyền và đoàn thể chú trọng hơn đến công tác vận động nên tình hình tuyển quân chuyển biến tích cực, từ 75,5% năm 1989 tăng lên 83% năm 1990 và đạt 100% kế hoạch năm 1991. Trong những năm 1986-1989, do tình hình về kinh tế đời sống, việc vận động thanh niên vào lực lượng dân quân tự vệ rất khó khăn do họ phải đi làm ăn xa. Từ 1989-1991, với quyết tâm cao của chi ủy, công tác xây dựng lực lượng ngày càng đi vào ổn định với tổng quân số 83 người từ xã đến ấp. Tất cả đều được huấn luyện kỹ các bài học cơ bản về chiến thuật. Phòng thủ địa bàn theo kế hoạch của huyện, xã xây dựng lực lượng đều khắp 7 ấp và biên chế ½ lực lượng chiến đấu tại chỗ, ½ lực lượng cơ động chiến đấu khi cần thiết.
Đây là thời kỳ mà những khó khăn trong nước về kinh tế đời sống và tác động của tình hình thế giới làm ảnh hưởng không ít đến tư tưởng của một bộ phận cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân về tính bền vững của chế độ. Vì vậy, chi ủy chú trọng công tác tư tưởng, chính trị với nhiệm vụ quán triệt các Nghị quyết 8, 9/TW, Nghị quyết 306/BCT và các Công văn 221, 222 nhằm xác định và tăng cường lập trường kiên định vững vàng, đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái hoặc biểu hiện dao động, phấn đấu vượt qua những thách thức, trung thành với đường lối cách mạng mà Đảng và Bác Hồ đã lựa chọn, định hướng thái độ chính trị đúng đắn cho cán bộ, đảng viên theo tinh thần đổi mới và hòa hợp của Đảng và Nhà nước. Việc sinh hoạt Đảng thời gian này đều đặn và nề nếp, nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách cũng được đảm bảo hơn. Nhờ vậy, tình hình chính trị-tư tưởng trong nội bộ Đảng cơ bản được giữ vững.
Đến năm 1991, chi bộ có 28 đảng viên nhưng trong đó có đến 2/3 là đảng viên hưu trí, mất sức, dù vậy, chi ủy vẫn tổ chức và phân công bố trí chịu trách nhiệm từng bộ phận, ngành và đoàn thể, củng cố tổ chức, và thường xuyên quan tâm làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên. Dù chịu nhiều tác động của tình hình chính trị phức tạp và khó khăn của đời sống kinh tế lúc bấy giờ, qua kết quả kiểm tra, đánh giá phân loại, chi bộ có trên 60% đảng viên đủ tư cách là đảng viên phấn đấu tốt, giữ vai trò tiên phong gương mẫu trong thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước.
Công tác qui hoạch và đào tạo cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt gặp nhiều khó khăn về nguồn do yêu cầu trẻ, có trình độ, trong khi đó tình hình cán bộ tại chỗ không ổn định. Tuy nhiên, chi ủy trong điều kiện nhất định vẫn bố trí và phân công đảng viên phụ trách các lĩnh vực.
Công tác nhắc nhở, giáo dục, kiểm tra, ngăn ngừa, xử lý vi phạm để làm trong sạch và nâng cao sức chiến đấu của đội ngũ đảng viên được chi bộ quan tâm thường xuyên nhằm giữ vững kỷ cương, kỷ luật trong Đảng (1).
Đổi mới hoạt động, chi ủy xây dựng qui chế hoạt động, phân định rõ ràng nhiệm vụ giữa chi ủy, chính quyền và đoàn thể, không còn tình trạng bao biện, làm thay và thực hiện chế độ hội ý để kịp thời góp ý, uốn nắn và điều chỉnh sai sót trong quá trình quản lý và điều hành hoạt động, lấy nguyên tắc tập trung dân chủ làm nguyên tắc cơ bản trong mọi công việc, kế hoạch, chương trình hành động trên cơ sở bàn bạc, thống nhất và phân công. Từng nội dung công tác, chi ủy có xây dựng kế hoạch và thời gian thực hiện, chế độ kiểm tra, rút kinh nghiệm.
Hội đồng nhân dân thời gian này có cải thiện hơn về lề lối làm việc, đảm bảo họp lệ kỳ với nội dung sát hợp yêu cầu của công tác quản lý nhà nước, thể hiện ngày càng tốt hơn vai trò là cơ quan đại diện cho ý chí nguyện vọng của nhân dân qua việc tiếp xúc cử tri, chuẩn bị nội dung và tổng hợp ý kiến cử tri, giải quyết nguyện vọng, quyền lợi của nhân dân tại các kỳ họp, góp phần nâng cao tín nhiệm và lòng tin của nhân dân đối với Đảng, chính quyền. Tuy nhiên, các tổ đại biểu còn nhiều hạn chế trong sinh hoạt. Đại biểu là cán bộ xã ấp chưa phát huy vai trò đại biểu mà chủ yếu tập trung làm công tác chuyên môn.
Nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước theo tinh thần chỉ đạo của Tỉnh ủy, bộ máy Ủy ban nhân dân qua hai đợt tinh giảm biên chế từ 33 cán bộ còn 29 cán bộ trên tinh thần đảm bảo phân công, bố trí phù hợp và hiệu quả. Nhờ đó, năng lực cụ thể hóa nghị quyết của cấp ủy, Hội đồng nhân dân, quản lý và điều hành được cải thiện và nâng lên, quản lý hành chính từng bước đi vào nề nếp, tác phong của đội ngũ cán bộ và nhân viên nghiêm túc và chững chạc hơn. Tuy nhiên, trong giải quyết một số mặt công tác nhạy cảm và bức xúc trong lúc giao thời chuyển đổi cơ chế như công khai quỹ tập đoàn sản xuất nông nghiệp, hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng, giải quyết tranh chấp ruộng đất nhiều lúc còn thiếu kiên quyết, kéo dài thời gian, gây bức xúc xã hội.
Từ khi có nghị quyết Trung ương 8B (khóa VI), tháng 3-1990 làm định hướng cho nhận thức và họat động trong tình hình mới, công tác quần chúng được cấp ủy quan tâm bằng việc củng cố tổ chức Mặt trận và các đoàn thể theo phương châm làm lại từ đầu và vững chắc, chú trọng cả về số lượng và chất lượng hội viên, đoàn viên, thành lập Hội Cựu chiến binh, Chữ Thập đỏ, tập trung xây dựng các tổ đa dạng, phân công, bố trí đảng viên phụ trách và giữ các vai trò chủ chốt. Những nỗ lực đó của địa phương cùng với tác động của tình hình đổi mới của đất nước qua các chủ trương về tháo bỏ cơ chế cũ, sửa sai, tạo sự thông thoáng trong họat động phát triển kinh tế, thúc đẩy sản xuất bằng các chính sách về ruộng đất... đã làm cho công tác vận động quần chúng có dấu hiệu khởi sắc. Niềm tin của nhân dân được củng cố và phục hồi với tinh thần phấn khởi, đã tích cực tham gia và đóng góp có hiệu quả vào các phong trào do Mặt trận và đoàn thể vận động ở địa phương trong thời gian này như: xây dựng kết cấu hạ tầng và các công trình phúc lợi điện, đường, trường, trạm... từ nguồn vốn “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Trong thời gian tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VII, qua Mặt trận và đoàn thể, nhân dân thể hiện quyền làm chủ tập thể của mình bằng các đóng góp và nguyện vọng thiết thực trên các lĩnh vực của đời sống kinh tế -xã hội, nhất là các vấn đề về phát triển sản xuất nông nghiệp ở địa phương như vật tư giá cả, thủy lợi, xây dựng kết cấu hạ tầng, lao động việc làm... và nhiều vấn đề khác của tình hình đất nước. Nhìn chung công tác vận động quần chúng trong thời gian này có bước cải thiện quan trọng, dù còn phải tiếp tục củng cố tổ chức, phát triển hội viên, nâng cao hơn nữa vai trò của mình sau thời gian yếu kém, nhưng nay đóng góp hiệu quả hơn vào nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, củng cố an ninh- quốc phòng và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh ở địa phương.
Xây dựng Đảng trong giai đoạn này dù còn một số mặt hạn chế về chất lượng sinh họat chi bộ, tự phê bình và phê bình, qui họach đào tạo cán bộ, phát triển đảng viên..., vai trò đại biểu Hội đồng nhân dân chưa được phát huy đúng mức, nội dung và phương thức họat động của Mặt trận và đoàn thể chưa đổi mới và hiệu quả, nhưng nhìn chung, cùng với tiến trình đổi mới của đất nước, họat động của hệ thống chính trị địa phương đã có bước chuyển biến quan trọng. Cùng với việc dân chủ xã hội chủ nghĩa được xác lập và phát huy, những chủ trương, chính sách mới của Đảng, và Nhà nước, những chỉ thị của tỉnh, huyện đều được chi ủy, chính quyền và đoàn thể triển khai, quán triệt và thông tin kịp thời đến nội bộ và toàn thể nhân dân. Nguyên tắc “dân biết, dân làm, dân kiểm tra” được cụ thể hóa bằng hành động. Cơ chế mới về kinh tế tạo động lực và sức bật lớn trong sản xuất và kinh doanh. Kết quả đó được thể hiện rõ trong việc địa phương đã hoàn thành các chỉ tiêu nghị quyết đề ra. Tất cả đã tạo nên một bầu khí xã hội ngày càng đồng thuận và năng động, sự tin tưởng của nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, vào công cuộc đổi mới ở địa phương ngày càng cao, thể hiện ở việc mạnh dạn đầu tư nguồn vốn vào sản xuất, mở ra nhiều cơ sở ngành nghề, đóng góp cho cộng đồng xã hội ngày càng nhiều hơn và hiệu quả hơn.
Trong bối cảnh khó khăn chung của cả nước trong những năm 1986-1990, khi trong nước tình hình kinh tế khủng hoảng nghiêm trọng, tác động tiêu cực từ bên ngoài khi Liên Xô và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu sụp đổ, ở địa phương là sự tan rã của mô hình tập đoàn sản xuất, hợp tác xã mua bán, hợp tác xã tín dụng và các cơ sở kinh tế quốc doanh, khiếu kiện, tranh chấp đất đai, thu ngân sách gặp khó khăn..., những kết quả trên đã khẳng định chi ủy, chính quyền và nhân dân Phước Tuy đã chấp hành đúng chủ trương đường lối của Đảng, thực hiện và vận dụng nghị quyết của Đảng bộ huyện một cách phù hợp vào thực tiễn ở địa phương mình, hoàn thành nhiệm vụ chính trị trong giai đọan này. Kết quả đạt được cùng những hạn chế và kinh nghiệm rút ra trong những năm đầu đầy khó khăn của thời kỳ bước vào công cuộc đổi mới là hành trang quí báu cho địa phương trong chặng đường tiếp theo.
2. Tiếp tục đẩy mạnh thực hiện đường lối đổi mới, bước đầu tạo chuyển biến trên các lĩnh vực (1991-1995)
Sau 5 năm thực hiện nghị quyết đại hội nhiệm kỳ 1986 - 1988 và 1989 -1991 trong bối cảnh của những năm đầu cùng toàn huyện thực hiện công cuộc đổi mới, Phước Tuy đạt được những kết quả quan trọng: kinh tế - xã hội, nhất là trên lĩnh vực nông nghiệp được giữ vững, nhiều mặt có phát triển, tiểu thủ công nghiệp có hướng được mở ra giải quyết thêm việc làm cho người lao động, kinh tế hộ gia đình phát triển đúng hướng, cuộc sống nhân dân có nâng lên cả về vật chất và tinh thần, niềm tin tưởng vào Đảng và nhà nước, vào công cuộc đổi mới được củng cố và nâng lên, dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy, an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo, hệ thống chính trị được củng cố theo hướng ngày càng kiện toàn.
Bước vào năm 1991, nhất là vào những tháng cuối năm, tình hình quốc tế và trong nước có nhiều biến đổi sâu sắc, tác động trực tiếp đến sự nghiệp đổi mới ở địa phương. Trong bối cảnh ấy, Phước Tuy còn đối mặt với nhiều khó khăn. Sản xuất nông nghiệp có chuyển biến nhưng vẫn còn chậm so với yêu cầu phát triển, tiềm năng đất đai chưa được khai thác triệt để, diện tích sản xuất lúa một vụ còn nhiều, đất đai chưa chưa được cải tạo triệt để, quản lý và sử dụng đất đai còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với quy họach, chăn nuôi còn nhỏ lẻ và bấp bênh, kinh tế hộ chưa có mô hình bền vững, trong khi đó tình hình thua lỗ, thất thoát của mô hình kinh tế tập thể để lại gánh nặng cho ngân sách địa phương vốn còn trong tình trạng căng thẳng, lao động chưa có việc làm còn nhiều, tỉ lệ tăng dân số còn cao, trình độ cán bộ còn hạn chế để đáp ứng yêu cầu đổi mới, đời sống cán bộ, đảng viên và nhân dân, trong đó có một bộ phận đối tượng chính sách còn khó khăn...
Tuy nhiên, xã cũng có những thuận lợi cơ bản. Đó là tiềm năng đất đai phục vụ sản xuất nông nghiệp, cụ thể là khả năng thâm canh, tăng vụ mở rộng diện tích gieo trồng, tăng năng suất và sản lượng còn rất lớn, bên cạnh tiềm năng lao động và nguồn lực xã hội hóa để xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và phát triển sản xuất và thực tế các công trình xã hội hóa ở địa phương trong những năm 1989-1991 đã và đang phát huy hiệu quả xã hội đã cho thấy điều đó. Năng lực và trình độ lãnh đạo, quản lý điều hành của cấp ủy, chính quyền xã được nâng lên và từng bước trưởng thành sau những năm đầu cùng cả nước thực hiện đường lối đổi mới. Tình hình chính trị thế giới có biến động nhưng thực tế đổi thay trong đời sống xã hội do sự nghiệp đổi mới mang lại tạo nên niềm tin và sức mạnh trong nhân dân. Đó là yếu tố cơ bản tạo động lực phát triển của xã hội.
Trong bối cảnh ấy, từ năm 1991-1995, Phước Tuy tiến hành hai kỳ đại hội chi bộ lần V (nhiệm kỳ 1991-1993) và lần VI (nhiệm kỳ 1993-1995), trên cơ sở điều kiện thực tế ở địa phương, đề ra phương hướng và nhiệm vụ tổng quát cho giai đọan này là: Xác định cơ cấu kinh tế ở địa phương là nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, trong đó cơ bản là nông nghiệp từ đó tạo điều kiện cho nông nghiệp phát triển toàn diện và đồng bộ về trồng trọt, trọng tâm là cây lúa bên cạnh cây phân tán khác thích hợp với yếu tố vùng, chăn nuôi, đồng thời thúc đẩy tiểu thủ công nghiệp từng bước phát triển. Trên cơ sở qui họach chung, dựa vào sức dân là chính, tiếp tục cải tạo và xây dựng mới một số công trình cần thiết theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, nhất là các công trình phục vụ sản xuất, đời sống và phúc lợi xã hội, giáo dục để làm thay đổi bộ mặt nông thôn. Tạo chuyển biến trên lĩnh vực văn hóa - xã hội, đáp ứng nhu cầu cần thiết về đi lại, học hành, chữa bệnh và việc làm cho người lao động, giải quyết một phần nhu cầu về hưởng thụ tinh thần cho nhân dân về văn hóa, văn nghệ. Bảo đảm ổn định an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, xây dựng phong trào quốc phòng toàn dân, phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc, thực hiện tốt nghĩa vụ địa phương đối với cả nước về quốc phòng. Nâng cao và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên toàn bộ hoạt động xã hội. Củng cố xây dựng tổ chức Đảng, chính quyền và đoàn thể thật sự vững mạnh để góp phần tích cực trong việc lãnh đạo điều hành và động viên quần chúng thực hiện kết quả nghị quyết đề ra, đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Trên cơ sở phương hướng chung đó, những nhiệm vụ cụ thể và giải pháp thực hiện được chi bộ xã đặt ra cho từng lĩnh vực.
- Về kinh tế, phát triển kinh tế nông nghiệp toàn diện, trọng tâm là cây lúa nhằm ổn định và tăng sản lượng đáp ứng nhu cầu lương thực và góp phần xuất khẩu. Để đạt được sản lượng ấy, cần thực hiện các biện pháp củng cố hệ thống thủy lợi nội đồng, vận động nhân dân chọn giống kháng bệnh, cho năng suất cao, loại dần các giống lúa địa phương truyền thống (trừ khu vực ven sông Vàm Cỏ), ứng dụng, tăng cường dùng phân hữu cơ, mời cán bộ huyện hướng dẫn chuyển giao khoa học kỹ thuật về trồng trọt và chăn nuôi cho dân. Để dân yên tâm sản xuất, cần tập trung giải quyết nhanh chóng và dứt điểm các vụ việc tranh chấp đất đai và cấp quyền sử dụng đất. Giải quyết triệt để tồn đọng của các tổ chức kinh tế tập thể. Tăng cường thu ngân sách, trên cơ sở đó, thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, xây dựng và phát triển một số công trình kết cấu hạ tầng. Phục hồi mạng lưới thú y, khuyến khích nhân dân nuôi gia súc gia cầm theo hướng chọn giống tốt và ít tiêu tốn thức ăn đem lại hiệu quả bên cạnh nuôi cá ở hộ gia đình. Tiếp tục giải quyết việc làm bằng hướng vận động dân đi lập nghiệp ở Đồng Tháp Mười. Khuyến khích các hộ dân có vốn, tay nghề mạnh dạn mở cơ sở tiểu thủ công nghiệp để thu hút và giải quyết lao động thừa.
- Về văn hóa - xã hội, tạo sự chuyển mới về đời sống văn hóa bằng cách đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về văn hóa theo tinh thần Đại hội VII, xây dựng phong trào văn nghệ quần chúng và thể dục thể thao, phát động phong trào xây dựng đời sống văn hóa nhằm từng bước cải thiện đời sống văn hóa ở nông thôn. Tăng cường cơ sở vật chất và trang thiết bị cho trường học, kết hợp với tạo điều kiện về nhiều mặt cho giáo viên để nâng cao chất lượng dạy và học. Để phòng chống dịch bệnh hiệu quả - một trong những nhiệm vụ chủ yếu của họat động y tế, bên cạnh chương trình chủng ngừa, cần tăng cường tuyên truyền kiến thức y tế rộng rãi trong dân. Nâng cao nhận thức trong cán bộ đảng viên và nhân dân về công tác đền ơn đáp nghĩa kết hợp với vận dụng phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” để xây dựng nhà tình nghĩa. Bên cạnh vận động lao động “lấp kín Đồng Tháp Mười”, khuyến khích mạnh mẽ các thành phần kinh tế địa phương phát triển để giải quyết việc làm.
- Về quốc phòng - an ninh - nội chính, đảm bảo ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, tăng cường công tác hậu phương quân đội, giáo dục tuyên truyền phổ biến pháp luật.
- Về xây dựng hệ thống chính trị, làm tốt công tác quần chúng trong tình hình mới theo tinh thần Nghị quyết 8B, nâng cao vai trò cơ quan quyền lực nhà nước của dân, quản lý và điều hành của chính quyền, đảm bảo tổ chức Đảng mạnh cả ba mặt: chính trị, tư tưởng và tổ chức.
Một số chỉ tiêu ở địa phương cũng được đề ra cho đến năm 1995 là:
- Diện tích gieo trồng là: 1.470 ha, năng suất ước tính vụ Hè Thu là 4,5 tấn/ha, Đông Xuân là 4 tấn/ha và vụ mùa là 3,5 tấn/ha, tổng sản lượng là 5.504 tấn.
- Chăn nuôi: mỗi gia đình 2 con heo, 20 con gà, vịt.
- Kiên quyết khai thông, tu sửa kênh N8 đoạn từ ấp 3 đến ấp 4 và hoàn chỉnh hệ thống bờ bao ngăn mặn từ ấp 1 đến ấp 2.
- Hoàn chỉnh rải sỏi đỏ hương lộ 21 đoạn Cầu Hàn đến Bến đò Xã Bảy, hoàn thành 1 cây cầu nối liền Xóm Miễu (ấp 6) với liên tỉnh lộ 50.
- Tốt nghiệp tiểu học đạt 90 %, lên lớp đạt 95%, huy động học sinh ra lớp 1 đạt 95%,
- Tiêm chủng mở rộng đạt 95%, uống vắc xin sabin đạt 100%, không còn trẻ bại liệt, giảm tỉ lệ tăng dân số còn 1, 5%.
- Xây dựng 3 căn nhà tình nghĩa.
- Về công tác Đảng, đưa chi bộ đạt danh hiệu trong sạch vững mạnh cuối 1993.
Xã còn được huyện định hướng những nhiệm vụ kinh tế cấp bách với nội dung cơ bản được đề ra tại Đại hội Đảng bộ huyện tại lần thứ VI là:“ Tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, phát huy sức mạnh tổng hợp của các thành phần kinh tế, khai thác có hiệu quả các nguồn lực tại chỗ, mở rộng sự liên kết và hợp tác kinh tế với các nơi nhằm phát triển kinh tế theo mục tiêu “dân giàu nước mạnh”, ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Phát triển kinh tế gắn với phát triển văn hóa - xã hội, đẩy mạnh xây dựng kết cấu hạ tầng, xây dựng nông thôn mới phấn đấu giải quyết một cách cơ bản về dân số và việc làm cho người lao động theo hướng phát huy hiệu quả các thành phần kinh tế và kinh tế hộ gia đình gắn với đẩy mạnh công tác điều dân sản xuất lập nghiệp Đồng Tháp Mười và các nơi khác. Thực hiện chu đáo các chính sách, chế độ đối với diện chính sách. Nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng, tăng cường khả năng phòng thủ, bảo đảo giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội ở địa phương, góp phần giữ vững ổn định chính trị. Không ngừng phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, nâng cao hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu lực quản lý nhà nước và chất lượng họat động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể. Tăng cường công tác xây dựng xã. Thực hiện tốt công tác quần chúng, đẩy mạnh các phong trào hành động cách mạng trong nội bộ và quần chúng nhân dân” (1).
Ngay sau các kỳ đại hội, chi bộ tập trung lãnh đạo chính quyền, đoàn thể và các ngành quán triệt quan điểm của Đảng các cấp trong thời gian này, nhất là của Huyện ủy về phát triển kinh tế và xây dựng nông nghiệp, nông thôn. Xã xác định trồng trọt và chăn nuôi là hai ngành chủ lực trong cơ cấu kinh tế nông - ngư nghiệp, trong đó cây lương thực là trọng tâm, nhằm phát triển một nền kinh tế nông nghiệp đồng bộ với cây trồng vật nuôi phù hợp ở địa phương, bên cạnh thúc đẩy phát triển tiểu thủ công nghiệp giải quyết việc làm, tăng thu nhập, phát triển kinh tế hộ gia đình.
Từ định hướng trên, xã nỗ lực phát huy thế mạnh về lao động, đất đai và nguồn lực xã hội đã mạnh dạn đẩy mạnh nhiều giải pháp đề ra trên các lĩnh vực nhằm khai thác tối đa tiềm năng của địa phương, tạo chuyển biến trên nhiều mặt trong những năm này.
Xác định cây lúa vẫn là thế mạnh hàng đầu, căn cứ vào diện tích đất và lao động, trong những năm 1991-1993, chi ủy tập trung lãnh đạo đẩy mạnh các biện pháp tăng diện tích sản xuất, thâm canh tăng vụ, ứng dụng khoa học kỹ thuật tăng năng suất như chọn giống, sử dụng phân, phòng trừ sâu bệnh, nạo vét kênh mương từ đầu năm để chống hạn... Những nỗ lực ấy cùng với cơ chế mới là kinh tế hộ “bung” ra theo tinh thần của Chỉ thị 100-CT/TW của Ban Bí thư khóa IV và Nghị quyết 10 của Bộ Chính trị khoá VI và việc giải quyết tranh chấp đất đai do bị xáo trộn trong thời kỳ làm ăn tập thể đã được giải quyết dứt điểm, đã làm cho nông dân an tâm và tạo động lực trong lao động sản xuất. Đến những năm 1993 -1995, nhiều biện pháp nhằm tiếp tục thực hiện chủ trương của Đảng bộ huyện về chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo tinh thần Nghị quyết Trung ương V như xác định vị trí, thế mạnh từng khu vực để khai thác hết tiềm năng, vận động nhân dân chú trọng đến việc sản xuất theo hướng nâng cao hiệu quả, chất lượng sản phẩm, giá trị hàng hóa lương thực gắn với thị trường, mạnh dạn loại bỏ giống cũ năng suất thấp, sử dụng giống năng suất cao và kháng rầy, tăng cường chuyển giao khoa học kỹ thuật được tích cực thực hiện.
Trong những năm 1991-1993, ngoài nạo vét các kênh nội đồng, kênh N8 được khai thông, hoàn chỉnh các bờ bao ngăn mặn từ ấp 1 đến ấp 2, năm 1994-1995, được sự hỗ trợ của huyện, xã tổ chức thi công hoàn thành bờ bao ngăn mặn ven sông Vàm Cỏ từ Vàm Bến Trễ đến bến đò Xã Bảy với tổng chiều dài 2.500 m, khối lượng đào đắp là 2.337m3, đê bao ngăn mặn ở ấp 1 được tu sửa với chiều dài 1.400m, khối lượng 400m3. Trong những năm này, xã huy động trung bình khoảng 120/1000 lao động trực tiếp và 40-50/60 lao động gián tiếp cho giao thông thủy lợi. Huyện còn hỗ trợ kinh phí chống lũ hàng năm để gia cố các mặt đập và nâng các tuyến bờ bao ven sông Vàm Cỏ.
Các yếu tố trên cùng với hiệu quả của công trình thủy lợi đập Bến Trễ đã đem lại những chuyển biến lớn về sản xuất nông nghiệp, dù thời gian này nhiều lúc thời tiết không thuận lợi, mưa ít, nắng hạn kéo dài, rồi lại mưa nhiều gây ngập ún, rầy nâu xuất hiện... Từ năm 1991-1993, diện tích gieo trồng ổn định với diện tích từ 1373 ha - 1.380 ha, tổng sản lượng các vụ Hè Thu, Đông Xuân và vụ mùa tăng dần từ 4.876 tấn năm 1991 lên 5.169 tấn năm 1992 và 5.504 tấn vào năm 1993 (1). Đến năm 1995-1996, diện tích gieo trồng tăng lên 1.470 ha, tổng sản lượng là 5.729 tấn, trong đó cơ cấu giống lúa Tài Nguyên cho hiệu quả kinh tế cao của vụ Đông Xuân là 90% (2), lương thực bình quân đầu người là 691 kg/năm, vượt chỉ tiêu nghị quyết đề ra.
Trong những năm 1991-1993, do biến động giá cả về con giống và thức ăn, người dân chưa mạnh dạn đầu tư lớn vào chăn nuôi gia súc, gia cầm mà chỉ giữ mức cầm chừng và nuôi nhỏ lẻ. Sang những năm 1994 - 1995, nhờ được trợ vốn của Ngân hàng Nông nghiệp huyện và công tác thú y, phòng ngừa dịch bệnh được quan tâm, giá cả thức ăn gia súc và giá thực phẩm có phần ổn định, người chăn nuôi có lãi nên chăn nuôi có dấu hiệu gia tăng, nhất là đàn gà, vịt, có lúc cao điểm, đàn vịt lên đến 10.000 con. Trung bình mỗi gia đình có 1 con heo và 100 con gà vịt. Nuôi gà công nghiệp lấy trứng cũng bắt đầu được nhân dân quan tâm. Nuôi trồng thủy sản vùng nước mặn được triển khai thí điểm ở các xã vùng hạ Cần Đước từ 1993 cũng bắt đầu được nhân dân Phước Tuy chú ý.
Do thị trường chưa ổn định và huyện chưa có chiến lược qui họach và thiếu những chính sách kinh tế để tháo gỡ những khó khăn kéo dài và xã chưa tạo được sự liên doanh liên kết với các địa phương ngoài huyện, ngoài xã để mở rộng đầu tư khai thác nên tiểu thủ công nghiệp trong những năm 1991-1995 phát triển chậm hơn nông nghiệp, chủ yếu là gia công xay xát lương thực, mộc gia dụng... Mức độ sử dụng lao động chưa nhiều, chủ yếu là lao động gia đình. Tuy nhiên, do nông nghiệp phát triển, nhờ cơ chế mới, sự khuyến khích, tạo điều kiện của Nhà nước, kinh tế hộ, kinh tế tư nhân có bước phát triển khá nhanh và khá đa dạng với các hình thức kinh doanh, dịch vụ nhỏ lẻ phục vụ nhu cầu sản xuất và tiêu thụ nông sản, dù chưa đạt quy mô lớn nhưng bước đầu có tác động thúc đẩy phát triển kinh tế nông nghiệp, tạo công ăn việc làm cho người lao động và làm năng động hoạt động kinh tế địa phương.
Sau nhiều năm gặp khó khăn, công tác tài chính - ngân sách trong thời gian này được chi ủy tập trung lãnh đạo bằng cách tăng cường cán bộ các ban ngành, đoàn thể hỗ trợ vận động, nhất là nợ thuế. Nhờ vậy, thu thuế nông nghiệp và ngoài quốc doanh đạt và vượt chỉ tiêu huyện giao (1), nhờ đó, đáp ứng các nhu cầu chi cần thiết ở địa phương, không còn tình trạng mất cân đối như những năm trước đó.
Về giao thông thủy lợi và xây dựng kết cấu hạ tầng, xã vận dụng cơ chế mới của Đảng và Nhà nước một cách phù hợp vào điều kiện thực tiễn ở địa phương, phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” được chú trọng, tăng cường huy động lao động xã hội chủ nghĩa tập trung cho mảng giao thông, thủy lợi. Đê bao ven sông Vàm Cỏ, các tuyến kênh nội đồng được củng cố, nạo vét, kênh N8 liên xã được khai thông đoạn ấp 3, ấp 4, tu sửa hoàn chỉnh hệ thống đê ngăn mặn ấp 1, ấp 2, nạo vét kênh N2. Ngoài hương lộ 21 được củng cố nâng cấp, các tuyến giao thông nông thôn được trải sỏi đỏ, Cầu Hàn được sửa chữa. Nhìn chung, giao thông thủy lợi trong thời gian này có bước đột phá (2), việc đi lại và giao thương thuận tiện hơn, phục vụ hiệu quả hơn nhu cầu tưới tiêu đồng ruộng. Nhân dân còn tiếp tục đóng góp kinh phí để kéo thêm 1.700 m đường dây điện trung thế về phục vụ cho khu vực ấp 7. Là địa bàn gặp khó khăn về nước ngọt sinh hoạt, xã lập danh sách 100 hộ dân ở ấp 5 và ấp 6, đề nghị về trên hỗ trợ vật tư làm hồ chứa nước mưa. Năm 1996, huyện hỗ trợ cải tạo, nâng cấp trụ sở Ủy ban nhân dân xã từ trụ sở hợp tác xã trước đây để đáp ứng nhu cầu làm việc và giao dịch hành chính cho nhân dân.
Có thể nói rằng, cùng với cuộc sống vật chất và tinh thần ngày càng được nâng lên, kết cấu hạ tầng nông thôn trong thời gian này chính là yếu tố nổi bật góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và tạo nên bộ mặt nông thôn ở địa phương khang trang hơn.
Công tác phân hạng ruộng đất và khảo sát, đo đạc để cấp quyền sử dụng đất lâu dài cho nhân dân nhằm khai thác có hiệu quả hơn nữa tài nguyên đất đai tiếp tục được thực hiện có hiệu quả. Xã tiến hành tổ chức cho nhân dân kê khai đăng ký quyền sử dụng đất theo mẫu thống nhất của Trung ương, đến năm 1995, có 1.282 /1.514 hộ đăng ký, xét 702 hộ đề nghị cấp giấy.
Tuy nhiên, việc giải quyết tranh chấp đất đai vẫn còn gặp nhiều khó khăn do tính chất phức tạp của vụ việc (3).
Nhìn chung, kinh tế, nhất là sản xuất nông nghiệp trong thời gian này có chuyển biến tích cực, thể hiện qua diện tích sản xuất tăng lên, tạo ra nhiều sản phẩm nông sản, có chú trọng đến hiệu quả kinh tế, mà cụ thể là cơ cấu giống Tài Nguyên vụ Đông Xuân chiếm 90%. Nông nghiệp phát triển kéo theo tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ dù còn nhỏ lẻ nhưng cũng cho thấy có chiều hướng năng động hơn. Kinh tế hộ chuyển biến theo hướng tích cực và hiệu quả. Cơ chế mới và công tác quản lý đất đai ngày càng tốt hơn, đã có tác động thúc đẩy sản xuất nông nghiệp theo hướng hiệu quả, chất lượng. Đời sống nhân dân được cải thiện làm tăng nguồn lực xã hội, nhất là cho xây dựng kết cấu hạ tầng, góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn
Về văn hóa - xã hội, nhờ sự hỗ trợ của huyện, hoạt động văn hóa thông tin có nhiều đổi mới về nội dung và hình thức hoạt động tuyên truyền đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật của Đảng và Nước, nhiệm vụ chính trị của địa phương. Nhiều nội dung quan trọng được thông tin tuyên truyền đến nhân dân địa phương trong thời gian này như Nghị quyết 5,7,8 của Ban Chấp hành Trung ương và cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân 3 cấp nhiệm kỳ 1994-1999, công tác tuyển quân, truyền thông dân số kế hoạch hóa gia đình, Nghị định 87,88/CP, Nghị định 24, 26,40, 48 của Chính phủ, Chỉ thị 814/TTg, chỉ thị 200/TTg của Thủ tướng... Theo đà phát triển kinh tế, chế độ thông tin ngày càng phong phú, đa dạng thông qua các phương tiện nghe nhìn làm cho nhận thức xã hội và mức hưởng thụ về văn hóa của nhân dân được nâng lên.
Công tác quản lý về văn hóa, nhất là các hoạt động kinh doanh văn hóa theo tinh thần Nghị định 87, 88 của Thủ tướng Chính phủ và chỉ thị 814/ TTg về tăng cường quản lý, thiết lập trật tự kỷ cương trong các hoạt động văn hóa và dịch vụ văn hóa, đẩy mạnh bài trừ một số tệ nạn xã hội nghiêm trọng được xã thực hiện nghiêm (1), góp phần lành mạnh hóa môi trường văn hóa và xã hội nói chung. Hoạt động lễ hội truyền thống tại các cơ sở tín ngưỡng dân gian (2) được quản lý sâu sát, đảm bảo diễn ra lành mạnh, góp phần duy trì và phát huy bản sắc văn hóa địa phương, nâng cao dần mức hưởng thụ văn hóa của nhân dân. Phong trào xây dựng nếp sống mới, văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa tiếp tục được đẩy mạnh (3). Thực hiện Chỉ thị 200 TTg của Thủ tướng về đảm bảo vệ sinh môi trường, 1994, xã vận động nhân dân tháo dỡ cầu tiêu không hợp vệ sinh ở các trục lộ giao thông trong xã, góp phần từng bước tạo bộ mặt văn hóa ở nông thôn.
Được sự hỗ trợ của ngành, quan tâm chỉ đạo, chăm lo cùng tháo gỡ khó khăn, cấp ủy cụ thể hóa Nghị quyết 04 và 02 của Trung ương bằng cách đẩy mạnh lãnh đạo việc kết hợp chặt chẽ ba môi trường giáo dục “nhà trường, gia đình và xã hội”, tăng cường trách nhiệm đối với Hội đồng giáo dục trong việc nâng cao chất lượng giáo dục về mọi mặt, củng cố các tổ chức đoàn thể quần chúng trong nhà trường, tiếp tục tranh thủ nguồn hỗ trợ của tỉnh, huyện, bên cạnh vận động từ nguồn xã hội hóa để xây dựng cơ sở vật chất, chú trọng công tác phổ cập giáo dục tiểu học, xóa mù chữ... Nhờ vậy, tình trạng 3 ca đã được xóa, chất lượng dạy và học được nâng lên, tỷ lệ học sinh lên lớp và tốt nghiệp các cấp học, số học sinh giỏi qua các năm đều tăng đáng kể, đội ngũ giáo viên các cấp ổn định và từng bước được chuẩn hóa về chuyên môn nghiệp vụ (1).
Trong điều kiện cơ sở vật chất chưa đáp ứng yêu cầu dù trước đó trạm y tế đã được xây dựng, lực lượng cán bộ y tế mỏng (3 cán bộ) nhưng với trình độ chuyên môn tốt và tinh thần phục vụ cao và được sự tập trung lãnh đạo của cấp ủy theo tinh thần Nghị quyết 04 và 02 của Trung ương, hoạt động y tế luôn được chú trọng và có bước nâng lên. Công tác chăm sóc bảo vệ sức khỏe của nhân dân được quan tâm qua việc đảm bảo khám và chữa bệnh điều trị (2). Các chương trình y tế quốc gia như tiêm chủng mở rộng, thanh toán bại liệt, uống Vitamin A, phòng trừ uốn ván sơ sinh được thực hiện có hiệu quả. Dịch bệnh sốt xuất huyết được phát hiện và điều trị kịp thời. Bệnh lao được quản lý theo dõi điều trị đúng phương pháp (3). Từ năm 1995, xã còn tiếp nhận nguồn thuốc của Unicef và 2 giường phục vụ khám bệnh và một số trang thiết bị y tế khác.
Công tác dân số kế hoạch hóa gia đình được cấp ủy tăng cường lãnh đạo bằng các biện pháp quán triệt sâu rộng trong cán bộ, đảng viên, tuyên truyền mạnh trong nhân dân, bố trí cán bộ hợp lý và phối hợp chặt chẽ với các ngành. Đặc biệt, việc tăng cường và kiện toàn hệ thống cộng tác viên ở tất cả 7 ấp được chú trọng để giải quyết những nội dung quan trọng là: Xử lý và nắm chính xác các số liệu chuyên môn, nắm chắc các đối tượng trong độ tuổi sinh đẻ để có biện pháp vận động hiệu quả. Nhờ vậy, việc thực hiện kế hoạch hóa gia đình được nhân dân hưởng ứng (4), làm cho công tác này chuyển biến rõ rệt, góp phần giảm tỉ lệ tăng dân số xuống còn 1, 2%.
Tuy nhiên, công tác chăm sóc sức khỏe trẻ em, trẻ em suy dinh dưỡng gặp nhiều khó khăn (44,75 %), do phần lớn trẻ em thuộc diện nghèo và các biện pháp thực hiện nhiều lúc chưa kịp thời.
Công tác chính sách, đền ơn đáp nghĩa đối với các gia đình thương binh liệt sĩ, gia đình có công với cách mạng luôn được quan tâm đúng mức. Ngoài việc thực hiện chế độ chính sách với gia đình liệt sĩ, thương binh, bệnh binh, hưu trí, mất sức, gia đình có công luôn kịp thời, chính xác, đảm bảo việc thăm viếng nhân tết Nguyên Đán, ngày 27-7, vận động hỗ trợ khó khăn, tổ chức gia đình liệt sĩ đi thăm viếng Nghĩa trang liệt sĩ huyện trong ngày Tết Nguyên Đán..., xã tập trung vào thực hiện khen thưởng 3 thời kỳ theo tinh thần Nghị định 28/CP, tiếp tục qui tập 13 mộ liệt sĩ về nghĩa trang liệt sĩ huyện, lập hồ sơ đề nghị phong tặng danh hiệu bà mẹ Việt Nam anh hùng... (5). Cuối năm 1995, xã tổ chức lễ trao danh hiệu Bà mẹ Việt Nam anh hùng (đợt đầu tiên) do Nhà nước phong tặng cho các mẹ Việt Nam anh hùng ở địa phương, thể hiện cụ thể sự tri ân đối với các gia đình đã đóng góp xương máu cho sự nghiệp cách mạng. Các mẹ Việt Nam anh hùng còn sống đều được các cơ quan trong và ngoài địa phương nhận phụng dưỡng suốt đời.
Thực hiện chương trình xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm từ các nguồn vốn quốc gia và chủ trương cho nông dân vay vốn, xã đã tổ chức điều tra, lập danh sách và xét duyệt nhiều dự án, đề xuất cho các đối tượng nghèo ở địa phương vay ưu đãi để tổ chức sản xuất (1). Hầu hết các hộ dân đều sử dụng vốn vay đúng mục đích và hiệu quả nên đời sống nhân dân ổn định và được cải thiện hơn so với trước. Quan tâm đến công tác xã hội, xã còn đề xuất, kết hợp với các đoàn làm công tác từ thiện để giúp đỡ, khám bệnh và điều trị miễn phí, tổ chức mua bảo hiểm y tế, đề nghị Mặt trận tổ Quốc và các đoàn thể vận động hỗ trợ bảo hiểm y tế cho các gia đình nghèo, neo đơn, không nơi nương tựa. Hội chữ thập đỏ cùng các tổ chức từ thiện và quỹ phúc lợi xã hội góp phần có hiệu quả trong việc đoàn kết giúp đỡ những gia đình khó khăn và cứu trợ đồng bào ở các địa phương bị thiên tai, lũ lụt.
Có thể thấy, chuyển biến về văn hóa-xã hội trong thời gian này góp phần làm nâng lên một bước về điều kiện hưởng thụ văn hóa, học hành, chữa bệnh cho nhân dân. Các vấn đề xã hội khác như việc làm-giảm nghèo được quan tâm hơn, mang lại hiệu quả ngày càng thiết thực về đời sống. Cuộc sống của nhân dân vì thế cải thiện một bước về chất lượng. Tuy nhiên, đồng thời với quá trình đổi mới đang làm cuộc sống nhân dân thay đổi, trong đó có đời sống văn hóa tinh thần, văn hóa không lành mạnh cùng với những tập tục lạc hậu có dịp trỗi dậy tác động tiêu cực lên một bộ phận, nhất là giới trẻ, trong khi các dịch vụ văn hóa tư nhân có khuynh hướng thương mại thuần túy, không chọn lọc, các thiết chế văn hóa phục vụ cho nhu cầu văn hóa ở nông thôn chưa được xây dựng, phong trào xây dựng đời sống văn hóa chưa đi vào cuộc sống.
Công cuộc đổi mới đặt ra cho địa phương nhiều nhiệm vụ trước tình hình nảy sinh như vi phạm nguyên tắc quản lý kinh tế, kinh doanh trái phép, buôn lậu, những vấn đề về trật tự và tệ nạn xã hội mà trong tình hình mới có chiều hướng gia tăng và ngày càng phức tạp. Thời gian này chi ủy lãnh đạo ngành công an tăng cường quản lý, kiểm tra, kiểm sóat các đối tượng có vấn đề về chính trị, phạm pháp, phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và trật tự an toàn xã hội, tuyên truyền Luật Tố tụng hình sự và Chỉ thị 25 của Tỉnh ủy, thành lập ban tự quản, đội dân phòng, triển khai kế họach quản lý nhân hộ khẩu, tăng cường tuần tra canh gác, mở nhiều đợt tấn công tội phạm, làm nòng cốt trong việc thực hiện Nghị định 36 CP của Chính phủ về trật tự và an toàn giao thông và Chỉ thị 200 của Thủ tướng chính phủ về vệ sinh môi trường trên địa bàn, phối hợp với lực lượng quân sự bảo vệ địa bàn trong những ngày lễ, tết và các sự kiện chính trị... Ngành công an còn kết hợp với quân sự, Mặt trận và đoàn thể đẩy mạnh phát động các phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc và xây dựng nền quốc phòng toàn dân, thế trận chiến tranh nhân dân, góp phần tăng cường ý thức trong nhân dân. Nhờ đó, tình hình an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn được giữ vững ổn định.
Công tác quân sự địa phương được quan tâm đặc biệt. Ngoài chú trọng tuyên truyền vận động thực hiện tốt Luật nghĩa vụ quân sự, nhờ xây dựng kế hoạch nắm nguồn hàng năm về điều tra lứa tuổi thanh niên 17 để đăng ký làm hồ sơ xét tuyển tuổi 18, nên các chỉ tiêu giao quân hàng năm đều đạt chỉ tiêu kế hoạch giao. Công tác xây dựng lực lượng dân quân tự vệ, dân quân cơ động và dự bị động viên sẵn sàng chiến đấu luôn được chú trọng, được huấn luyện thường xuyên. Công tác phòng thủ cơ bản tại địa phương theo tình hình mới được quan tâm chặt chẽ.
Hoạt động thanh tra - tư pháp có nhiều cố gắng trong việc giải quyết các vi phạm pháp luật, tranh chấp, tổ chức hòa giải nhưng việc tuyên truyền giáo dục pháp luật trong nhân dân chưa tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ này trong thời kỳ mới. Việc xử lý một số trường hợp vi phạm pháp luật vẫn còn chưa đạt mức kiên quyết.
Sau bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp, Hội đồng nhân dân xã nhiệm kỳ 1989-1994 được bồi dưỡng và học tập về chức năng nhiệm vụ mới, nhìn chung họat động đúng luật định, năng lực giám sát và cụ thể hóa chủ trương, nghị quyết chi bộ đề ra ngày càng có chiều sâu và xây dựng nghị quyết, kế họach thiết thực, phù hợp hơn với điều kiện thực tế địa phương, đại biểu có tiếp xúc cử tri để nắm nguyện vọng của dân, đề đạt ý kiến trong cuộc họp và phản hồi cử tri sau kỳ họp, thể hiện là đại biểu của cơ quan quyền lực của dân. Không khí dân chủ, thẳng thắn trong tổ chức được phát huy, kỷ luật, kỷ cương được xác lập. Năng lực quản lý và điều hành của Ủy ban nhân dân được nâng lên trên từng mặt của lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, thể hiện được tính chất nhà nước pháp quyền, quản lý xã hội bằng pháp luật, việc cụ thể hóa nghị quyết của Đảng bộ và Hội đồng nhân dân ngày càng sát hợp hơn, các ủy viên ủy ban được phân công phụ trách và chịu trách nhiệm từng ngành, từng lĩnh vực và thực hiện chế độ báo cáo hàng tuần, hàng tháng nên công việc ngày đảm bảo chất lượng và tiến độ thời gian qui định. Tác phong của đội ngũ trong bộ máy chính quyền ngày càng nề nếp, thái độ tiếp dân tốt hơn.
Nhìn chung, việc kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước của xã trong thời gian này có chuyển biến và nâng lên về hiệu quả quản lý và điều hành xã hội bằng pháp luật, đưa nghị quyết của Đảng, nhiệm vụ chính trị của địa phương đi vào cuộc sống hiệu quả hơn, góp phần quan trọng trong việc tổ chức thực hiện hoàn thành các chỉ tiêu về kinh tế-xã hội, an ninh-quốc phòng mà địa phương đề ra. Tuy nhiên, do không đồng bộ về trình độ, năng lực, do chế độ kiêm nhiệm, cơ chế chồng chéo, bất cập về chế độ chính sách…, hoạt động kiểm tra giám sát việc quản lý điều hành bằng pháp luật đối với Ủy ban nhân dân của Hội đồng nhân dân chưa thể hiện rõ.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương 8B (khóa VI), chi ủy tăng cường lãnh, chỉ đạo và tạo điều kiện thuận lợi để Mặt trận và đoàn thể phát huy vai trò của mình trong việc “đổi mới công tác quần chúng của Đảng, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân”. Sau bước củng cố về tổ chức từ ban chấp hành đến chi hội, phân hội, tổ hội và đến từng hội viên (1), công tác vận động quần chúng có nhiều nỗ lực đổi mới nội dung hoạt động và hình thức sinh hoạt. Việc tổ chức tập hợp thành viên, hội viên, nội dung chương trình hành động luôn gắn với lợi ích thiết thực của quần chúng, hội viên như xây dựng đề án vay vốn để làm kinh tế gia đình, giải quyết việc làm, giảm nghèo, xây dựng các tổ tương trợ không lãi như hụi, xi-măng, gạch, ngói... để xây nhà, xây dựng tổ đa dạng... Mặt trận Tổ quốc ngày càng thể hiện được vai trò đại diện của mọi tầng lớp, thành phần xã hội để thực hiện nhiệm vụ chính trị và các phong trào cách mạng ở địa phương, nhất là trong đợt bầu cử Hội đồng nhân dân 3 cấp nhiệm kỳ 1994-1999, vận động ủng hộ nhân dân Cu-ba..., cũng như xây dựng lực lượng nòng cốt trong các giới, nắm và quản lý tốt các hoạt động tôn giáo, từ thiện nhân đạo. Hội Nông dân, Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ phát huy được vai trò nòng cốt trên lĩnh vực vận động quần chúng của mình như xây dựng các tổ tương trợ, giúp dân vay vốn sản xuất, tham gia các chương trình khuyến nông, IPM, học tập và ứng dụng khoa học kỹ thuật vào đồng ruộng, các phong trào xung kích, vận động thanh niên thi hành nghĩa vụ quân sự, kế hoạch hóa gia đình, vệ sinh phòng dịch, tiêm chủng mở rộng... Hội Cựu chiến binh vừa được thành lập dù còn mới mẻ nhưng đã có nhiều nỗ lực trong việc phát huy bản chất bộ đội cụ Hồ, vận động các phong trào khác của địa phương. Nhờ vậy, phong trào hành động cách mạng từng bước được khơi dậy rộng rãi trong các tầng lớp nhân dân, huy động được nguồn lực xã hội vào thực hiện các nhiệm vụ kinh tế - xã hội, nhất là xây dựng cơ sở hạ tầng, công trình phúc lợi công cộng, đoàn kết giúp nhau vượt khó, phát triển kinh tế gia đình, nhân đạo xã hội..., góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Trong bối cảnh phức tạp của tình hình chính trị thế giới và tình hình kinh tế trong nước còn nhiều khó khăn, công tác củng cố tư tưởng chính trị được tăng cường quán triệt đến toàn hệ thống chính trị ở cơ sở và nhân dân. Thông qua các đợt học tập triển khai nghị quyết các cấp, những đợt học tập, sinh hoạt chính trị, kỷ niệm các ngày lễ lớn nhằm ôn lại lịch sử và truyền thống, những nội dung lớn trong thời gian này như Nghị quyết đại hội VII, Nghị quyết III, IV, V của Trung ương, Nghị quyết 02, của Tỉnh ủy, các nghị quyết khác của Huyện ủy, thông tin thời sự thế giới và trong nước, về âm mưu “diễn biến hòa bình”... đã góp phần củng cố, nâng cao nhận thức và niềm tin trong cán bộ, đảng viên và quần chúng về kiên định lập trường đi lên chủ nghĩa xã hội, chống các biểu hiện đa nguyên, đa đảng, những luận điệu tuyên truyền xuyên tạc của các thế lực thù địch, khẳng định vai trò lãnh đạo tuyệt đối của Đảng và sự nghiệp đổi mới của đất nước là tất yếu của cách mạng Viêt Nam. Nhờ đó, những lệch lạc trong tư tưởng của hệ thống chính trị được kịp thời chấn chỉnh, nhận thức được củng cố, cảnh giác cách mạng được tăng cường, niềm tin được nâng lên, an tâm công tác, đoàn kết nhất trí nội bộ được củng cố, cán bộ trưởng thành hơn trước cơ chế mới.
Công tác sưu tầm tư liệu để xây dựng bản thảo phục vụ cho việc biên sọan, xuất bản công trình lịch sử truyền thống và đấu tranh cách mạng của xã giai đọan 1930-1975 cũng cơ bản hoàn thành trong thời gian này.
Sau bầu cử Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 1994 -1999, bộ máy xã được bố trí và sắp xếp lại theo tinh thần Quyết định 1098 của Ủy ban nhân dân tỉnh về xem xét trình độ để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ. Nhờ tiếp tục quán triệt Nghị quyết Trung ương 03, Nghị quyết 02 của Tỉnh ủy và chương trình hành động của Huyện ủy về một số nhiệm vụ chỉnh đốn Đảng, đa số đảng viên được giao nhiệm vụ đều thể hiện trách nhiệm, đoàn kết và giữ gìn kỷ luật, kỷ cương, gắn bó, phát huy được vai trò vận động và lãnh đạo phong trào quần chúng ở địa bàn, ngành. Qua kiểm điểm tự phê bình và phê bình hàng năm, có 100% đảng viên tham gia và được phân loại, qua đó làm trong sạch và tăng cường sức chiến đấu của chi bộ.
Nâng cao năng lực về chính trị và chuyên môn cho cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt, cấp ủy cử 1 đồng chí chi ủy viên đi học lớp trung cấp chính trị ở tỉnh, ngoài ra còn cử nhiều cán bộ tham gia bồi dưỡng thường xuyên chương trình khác. Phát triển lực lượng kế cận, năm 1995, chi bộ kết nạp 4 đảng viên mới và bồi dưỡng 14 đối tượng là đoàn viên và hội viên ưu tú của đoàn thể.
Đổi mới phương thức lãnh đạo và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, chi ủy xây dựng chương trình, kế hoạch công tác hàng tháng, lãnh đạo điều hành bằng nghị quyết và căn cứ vào tình hình thực tế của địa phương mà vận dụng chỉ đạo, phân công thành viên phụ trách địa bàn, sinh họat định kỳ, làm việc theo phương pháp tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, đảm bảo giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thường trực thực hiện chế độ họp hàng tháng, quý, năm để sơ kết đánh giá rút kinh nghiệm và đưa ra phương hướng nhiệm vụ trong thời gian tới. Nhờ vậy, các công tác được thực hiện có hiệu quả, trọng tâm, mối quan hệ cộng đồng trách nhiệm trong việc thể chế hóa nghị quyết của chi ủy thành nghị quyết của cơ quan quyền lực nhà nước cùng cấp ngày càng trở nên phù hợp và hiệu quả, đồng thời cũng không có hiện tượng lấn sân, bao biện làm thay dù vẫn không buông lơi vai trò lãnh đạo.
Nhìn chung, việc đổi mới phương thức lãnh đạo và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng bước đầu tạo chuyển biến tích cực và cụ thể, góp phần quan trọng vào nhiệm vụ xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh - nền tảng của những thành tựu trên các lĩnh vực trong thời gian này ở địa phương, mà rõ nét nhất là trên lĩnh vực kinh tế - xã hội.
Tính đến cuối năm 1995, kinh tế của xã tăng trưởng khá. Chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp đúng hướng với việc đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, bước đầu mang lại hiệu quả. Tiểu thủ công nghiệp tuy còn nhỏ lẻ nhưng kinh tế nhiều thành phần có chiều hướng năng động hơn với các hình thức đa dạng và mức độ đầu tư ngày càng cao hơn. Nguồn lực xã hội được khơi dậy và phát huy ngày càng hiệu quả, nhất là trên lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng. Bằng nhiều nguồn đầu tư, phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” được phát huy góp phần thay đổi bộ mặt nông thôn nhờ các công trình kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nông thôn như điện, đường, trường, trạm, thông tin liên lạc... Nhà ở của dân được ngói hóa trên 40%, phương tiện đi lại, nghe nhìn và các phương tiện sinh họat khác cùng sức mua ngày càng tăng lên. Đời sống được cải thiện, xóa hộ đói, giảm hộ nghèo, hộ khá giàu tăng lên. Các vấn đề xã hội được quan tâm và thực hiện ngày càng hiệu quả. Đặc biệt, trong công tác chính sách, việc khen thưởng 3 thời kỳ và tôn vinh danh hiệu bà mẹ Việt Nam anh hùng đã có tác dụng giáo dục truyền thống tích cực và cụ thể. An ninh-quốc phòng tiếp tục được giữ vững ổn định. Hệ thống chính trị khẳng định vai trò lãnh đạo toàn xã hội trong thời kỳ mới. Niềm tin nhân dân được nâng lên. Những thành tựu trên khẳng định Phước Tuy vượt qua được giai đoạn khó khăn, thử thách, thoát dần ra khỏi cơ chế quan liêu bao cấp và quan trọng là mục tiêu cơ bản của chi bộ đề ra trong giai đọan này đã được hoàn thành cơ bản, tạo đà thuận lợi cho mục tiêu của những năm tiếp theo.
Đó là kết quả của quá trình quan tâm và lãnh đạo sâu sát của Đảng bộ huyện, sự hỗ trợ của các ban ngành đoàn thể tỉnh, huyện, của ý chí tự lực, tự cường, đoàn kết nhất trí, nỗ lực phấn đấu vượt qua khó khăn thử thách của chi ủy và tập thể chi bộ xã trong quá trình tổ chức thực hiện đã vận dụng nghị quyết phù hợp vào điều kiện cụ thể của địa phương. Và điều quan trọng là trong quá trình lãnh đạo, chi bộ đã kịp thời xác định nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến những yếu kém trong nhiệm kỳ trước, từ đó quyết tâm tìm biện pháp khắc phục trong công tác hàng tháng, hàng quý, hàng năm. Năng lực chỉ đạo điều hành của cấp ủy Đảng và chính quyền ở cơ sở ngày càng được nâng lên đã phát huy sức mạnh tổng hợp, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa phương mình.
Dù vậy, trên lĩnh vực kinh tế - xã hội, tiềm năng đất đai vẫn chưa được khai thác triệt để, kinh tế hộ chưa có mô hình bền vững, kinh tế còn thuần nông, chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp chưa mạnh và rõ nét, sản xuất và chăn nuôi còn bấp bênh bởi thời tiết, giá cả thị trường và dịch bệnh, huy động lao động công ích chưa hiệu quả, vệ sinh môi trường, giao thông nông thôn còn nhiều bức xúc. Về an ninh - quốc phòng, an ninh văn hóa và an ninh chính trị có chiều hướng phức tạp, còn tình trạng quân nhân bỏ ngũ, chất lượng dân phòng chưa cao. Về xây dựng hệ thống chính trị, năng lực quản lý nhà nước bằng pháp luật và chức năng tham mưu của các ngành cần phải tiếp tục được nâng cao; họat động của Mặt trận và đoàn thể còn nặng tính hành chính, phong trào quần chúng chưa thực sự mạnh và vững; công tác giáo dục chính trị tư tưởng, triển khai nghị quyết chưa được tổ chức học tập đều khắp ra quần chúng, một số cán bộ, đảng viên chưa ngang tầm với nhiệm vụ, công tác phát triển Đảng còn chậm.
Những vấn đề đó, bên cạnh nguyên nhân khách quan như cơ chế chính sách còn bất cập, giá cả tiền tệ không ổn định, thời tiết diễn biến phức tạp, tác động của mặt trái thời mở cửa... làm ảnh hưởng đến nhiều mặt của đời sống xã hội, nhất là về kinh tế, là những nguyên nhân chủ quan thuộc về vai trò của hệ thống chính trị. Về phía chính quyền, dù có Luật Hội đồng nhân dân, có qui chế nhưng Hội đồng nhân dân vẫn chưa phát huy hết chức năng của mình, nhất là chức năng đại biểu của dân. Việc triển khai nghị quyết thành chương trình, kế hoạch cụ thể của Ủy ban nhân dân nhiều lúc còn bị động, lúng túng. Các thành viên hoạt động chưa đều tay, một số còn ngại khó, còn tâm lý trông chờ, ỷ lại vào cấp trên. Về phía Mặt trận và đoàn thể, dù có Nghị quyết 8B về đổi mới nội dung và phương thức hoạt động trong công tác vận động quần chúng nhưng chưa có hình thức hay, phong phú và thu hút để tập hợp quần chúng vào các tổ chức đoàn thể chính trị xã hội. Cuối cùng là vai trò của chi ủy, chi bộ còn bị động, gặp nhiều lúng túng trong việc thực hiện các Nghị quyết Trung ương 4, 5 để thay đổi bộ mặt nông thôn. Công tác phát triển đảng viên chưa đạt yêu cầu trước tình hình mới. Việc tiếp thu và vận dụng nghị quyết của một số cán bộ đảng viên vẫn còn chưa đạt yêu cầu để đáp ứng tình hình nhiệm vụ.
Giai đoạn 1991-1995 để lại cho cấp ủy địa phương những kinh nghiệm quan trọng về lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Thứ nhất, chi ủy phải là trung tâm đoàn kết cho toàn cán bộ đảng viên và cả hệ thống chính trị nói chung. Để chủ trương, nghị quyết, chính sách, chỉ thị của trên đi vào cuộc sống có hiệu quả, phải nghiêm túc tổ chức quán triệt để giải quyết vấn đề nhận thức từ nội bộ đến quần chúng nhân dân. Trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện nghị quyết, chi ủy phải quán triệt đến từng cán bộ, đảng viên để nắm vững và thực hiện có hiệu quả, đồng thời với tăng cường phối hợp đồng bộ giữa các ngành, đòan thể, phải thường xuyên kiểm tra giám sát, đôn đốc, nhắc nhở; tổng kết, sơ kết, gắn kịp thời khen thưởng và phê bình.
Phải xác định vận động quần chúng là nhiệm vụ trọng tâm và xuyên suốt ở tất cả các lĩnh vực và là trách nhiệm của toàn hệ thống chính trị. Phải biết tin và biết dựa vào dân để phát huy sức mạnh tổng hợp của nguồn lực lớn lao này. Phải biết phát huy các giá trị truyền thống trong đấu tranh cách mạng của nhân dân vào nhiệm vụ xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương trong thời kỳ mới.
Đảm bảo giữ vững kỷ cương nhưng phải linh hoạt, mềm dẻo đối với cán bộ, đảng viên vi phạm. Phát triển đảng viên phải chú ý đến chất lượng, không chạy theo số lượng, chú ý đến trình độ văn hóa và năng lực chuyên môn. Mạnh dạn giao nhiệm vụ và đào tạo, kết hợp với đánh giá, bố trí cán bộ đúng vị trí nhằm phát huy năng lực cán bộ và xây dưng dần đội ngũ kế thừa.
Thành tựu trên cùng với những kinh nghiệm rút ra được trong quá trình ấy là hành trang để Phước Tuy bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
*
* *
CHƯƠNG BA
BƯỚC VÀO THỜI KỲ CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
(1996 - 2010)
1. Mục tiêu phát triển những năm cuối thế kỷ XX
Năm 1996 là năm Đảng ta tổ chức Đại hội Đảng các cấp tiến tới Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII - Đại hội tập trung trí tuệ của đồng chí, đồng bào chung sức chung lòng quyết định những phương sách quan trọng của đất nước là phát triển kinh tế - xã hội những năm 1996 - 2000 và những thập niên đầu thế kỷ XXI.
Sau 10 năm thực hiện công cuộc đổi mới (1986 -1996), “thế và lực của đất nước ta đã có sự biến đổi rõ rệt về chất. Nước ta đã ra khỏi cuộc khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng và kéo dài hơn 15 năm, tuy còn một số mặt chưa vững chắc, song đã tạo được tiền đề cần thiết để chuyển sang thời kỳ phát triển mới: đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”. Để thực hiện mục tiêu của công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng đề ra nhiệm vụ “tập trung mọi lực lượng, tranh thủ thời cơ, vượt qua thử thách, đẩy mạnh công cuộc đổi mới một cách toàn diện và đồng bộ, tiếp tục phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa...” (1).
Trong tình hình ấy của cả nước, Long An là tỉnh có tốc độ phát triển nhanh về kinh tế, chuyển biến tích cực về văn hóa - xã hội, lại nằm ở cửa ngõ phía Tây và Nam của thành phố Hồ Chí Minh và miền Đông Nam Bộ, đầu cầu phía Bắc vùng nông thôn Đồng bằng sông Cửu Long, nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, có nhiều tiềm năng về đất đai, lao động với triển vọng phát triển công nghiệp, khai thác tốt nông nghiệp, thu hút đầu tư...
Cần Đước sau 10 năm đổi mới, tình hình kinh tế - xã hội có sự chuyển biến mạnh mẽ, mở ra nhiều triển vọng để khai thác đúng hướng tiềm năng thế mạnh của địa phương, là địa bàn có khả năng liên doanh, liên kết với thành phố Hồ Chí Minh và các nơi khác. Nhiều công trình kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đã phát huy tác dụng, tạo ra bộ mặt nông thôn mới, tạo động lực phát triển.
Thực hiện chỉ thị của Ban bí thư Trung ương Đảng về việc tiến hành đại hội Đảng bộ các cấp, để tổng kết những ưu khuyết điểm và rút ra những bài học kinh nghiệm, đồng thời đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho giai đoạn tiếp theo, đầu năm 1996, chi bộ Phước Tuy tiến hành đại hội chi bộ khóa VII nhiệm kỳ 1996 - 2000. Trên cơ sở phân tích một cách đầy đủ và toàn diện những thuận lợi, khó khăn, đại hội đã đề ra phương hướng và quan điểm phát triển đến năm 2000, trên con đường cùng với toàn huyện tiếp tục thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế gắn liền với công nghiệp hóa - hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở địa phương, là: “tiếp tục thực hiện Nghị quyết Trung ương V và Nghị quyết 02 của Tỉnh ủy về xây dựng xã nông thôn mới và chương trình hành động của Huyện ủy về thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ. Để tiếp tục nâng cao hiệu quả kinh tế - xã hội, xã tiếp tục phát huy thế mạnh sản xuất nông nghiệp theo hướng phát triển nông nghiệp tòan diện, tạo ra nông sản hàng hóa đáp ứng yêu cầu thị trường; tiếp tục chăm lo sự nghiệp văn hóa - xã hội, từ đó cải thiện và nâng cao một bước về đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; củng cố an ninh - quốc phòng vững chắc, chú trọng công tác chính trị - tư tưởng, nâng cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng” (1).
Cùng với việc xác định cơ cấu kinh tế trong nhiệm kỳ này là nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, Đại hội cũng đề ra những nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu để lãnh đạo và chỉ đạo trên từng lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng và xây dựng hệ thống chính trị.
Về kinh tế - xã hội, nắm vững quan điểm, chủ trương đường lối của Đảng theo tinh thần Nghị quyết đại hội VIII, mà cụ thể là các Nghị quyết 3, 4, 5, 7, 8 của Ban Chấp hành Trung ương, Nghị quyết 02 của Tỉnh ủy, Nghị quyết Trung ương 2, 3 khóa VIII, tập trung sức cho phát triển nông nghiệp, chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp theo hướng hiệu quả, lấy hộ gia đình làm đơn vị kinh tế, nâng cao năng suất và sản lượng đồng thời với nâng cao giá trị sản phẩm, mà cụ thể là cây lúa, cây màu; chọn giống vật nuôi phù hợp với giá cả từng thời điểm tiêu thụ của thị trường; quản lý các dịch vụ ngoài quốc doanh họat động đúng hướng. Tiếp tục phát huy phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, đẩy mạnh huy động lao động công ích, làm tốt công tác thu ngân sách để xây dựng kết cầu hạ tầng, thủy lợi. Đẩy mạnh công tác cấp giấy quyền sử dụng đất cho dân, tiếp tục qui hoạch để khai thác có hiệu quả tiềm năng đất đai. Quan tâm xây dựng kết cấu hạ tầng như đường giao thông liên ấp, cầu cống, điện sinh hoạt, nhất là vấn đề nước sạch, nhằm ổn định và nâng cao lên một bước về kinh doanh sản xuất, ăn ở sinh hoạt, đi lại và học hành… cho nhân dân. Đẩy mạnh cuộc vận động xây dựng nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, chăm lo tốt hơn nữa đối tượng chính sách, thành lập ban vận động quỹ đền ơn đáp nghĩa, tăng cường giải quyết việc làm - giảm nghèo, nâng cao một bước đời sống vật chất tinh thần của nhân dân.
Về an ninh - quốc phòng, tăng cường sự lãnh đạo của cấp ủy bằng các biện pháp đảm bảo thực hiện tốt kế hoạch phòng thủ cơ bản trên địa bàn và đủ sức gìn giữ kỹ cương luật pháp, đảm bảo nhiệm vụ giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa phương.
Về xây dựng hệ thống chính trị, tăng cường củng cố tổ chức Đảng thật sự trong sạch vững mạnh, xứng đáng là hạt nhân để lãnh đạo và tổ chức thực hịện mọi nhiệm vụ. Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận và các tổ chức đoàn thể nhằm thu hút đông đảo các tầng lớp nhân dân đứng vào các tổ chức quần chúng, góp phần tạo thêm nguồn lực xã hội thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Phát huy mạnh hiệu lực hoạt động của chính quyền, thiết lập trật tự kỷ cương trong việc quản lý xã hội bằng pháp luật.
Các chỉ tiêu cụ thể đến năm 2000 cũng được Đại hội đề ra, trong đó đáng chú ý là:
- Ổn định diện tích gieo trồng là 1.650 ha, trong đó, Hè Thu là 646 ha, năng suất 3,8 tấn/ha, lúa mùa là 367 ha, năng suất 3,6 tấn/ha và Đông Xuân là 646 ha, năng suất 3,8 tấn/ha.
- Hoàn thành 10 công trình về kết cấu hạ tầng, chủ yếu là đường giao thông, cầu, đập, đê bao... được thực hiện bằng nguồn vốn “Nhà nước và nhân dân cùng làm”.
- Hoàn thành cơ bản công tác đăng ký, xét và cấp quyền sử dụng đất.
- Qui hoạch nghĩa trang nhân dân 7/7 ấp.
- Huy động trẻ em ra lớp đạt 100%, tốt nghiệp tiểu học đạt 100%
- Giữ vững tỉ lệ dân số 1,5%.
- Đạt 70% gia đình văn hóa.
- Về quốc phòng - an ninh: hoàn thành 100% chỉ tiêu giao quân.
- Về xây dựng hệ thống chính trị: phấn đấu đến năm 2000 thành lập Đảng bộ, xây dựng mỗi ấp một chi bộ, thành lập chi bộ quân sự và chi bộ trường học.
Với nhiệm vụ và mục tiêu đề ra như nêu trên, ngoài việc phải có giải pháp thích hợp cho từng lĩnh vực cụ thể, những biện pháp tổ chức thực hiện trong thực tế cuộc sống, phải có đội ngũ những người tiêu biểu cho trí tuệ của Đảng ở địa phương để lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị mà nghị quyết đã đề ra. Đại hội đã bầu chi ủy chi bộ Phước Tuy nhiệm kỳ 1996 - 2000 gồm 5 đồng chí, do đồng chí Võ Văn Mão làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Ẩn làm Phó bí thư thường trực và đồng chí Nguyễn Thế Hùng làm Phó bí thư phụ trách Chủ tịch Ủy ban nhân dân.
Đại hội chi bộ xã Phước Tuy lần thứ VII là sự kiện chính trị có ý nghĩa quan trọng trong đời sống xã hội của cán bộ, đảng viên và nhân dân địa phương trong giai đoạn 1996 - 2000, mà những nội dung của nó mở đầu cho một thời kỳ mới theo hướng đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện bằng cách tiếp tục chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp, nâng cao giá trị nông sản hàng hóa đáp ứng nhu cầu thị trường, tạo điều kiện tiếp tục phát triển tiểu thủ công nghiệp và các ngành nghề truyền thống ở địa phương nhằm tạo nhịp độ tăng trưởng kinh tế nhanh, nâng cao hiệu quả trên các lĩnh vực văn hóa - xã hội, đồng thời củng cố quốc phòng - an ninh vững chắc và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội VIII, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ VII, tiếp tục thực hiện đường lối đổi mới của Đảng trong giai đoạn mới, cấp ủy, chính quyền và nhân dân Phước Tuy bước vào thời kỳ 1996 -2000 với niềm tin tiếp tục phát huy thế mạnh về lao động và khai thác tiềm năng đất đai, nguồn nước để nâng cao năng suất và sản lượng cây lúa, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi để sản xuất nhiều sản phẩm nông nghiệp cho xã hội, đem lại hiệu quả kinh tế cho địa phương, tăng thu nhập và cải thiện đời sống nhân dân với nền kinh tế nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước sẽ kích thích các nguồn lực ở địa phương trên con đường phát triển.
2. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội, củng cố quốc phòng - an ninh và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh (1996 - 2000)
Phước Tuy bước vào thực hiện nhiệm vụ chính trị giai đoạn 1996 - 2000 trong bối cảnh tình hình kinh tế nông nghiệp của xã có bước chuyển biến tích cực. Các công trình hạ tầng như thủy lợi, điện, đường giao thông nông thôn, điện thoại... được cải thiện, đã phát huy tác dụng, tạo ra bộ mặt nông thôn mới, góp phần tạo điều kiện thuận lợi cho yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Chính sách xã hội ngày càng được quan tâm thực hiện tốt, tạo đồng thuận xã hội. Công tác xây dựng Đảng, công tác quần chúng được nâng lên một bước về chất. Các nguồn lực xã hội được khai thác và phát huy ngày càng hiệu quả. Tình hình chính trị và trật tự an toàn xã hội ổn định. Đời sống nhân dân ổn định, có bước nâng lên về cả vật chất lẫn tinh thần.
Dù vậy, trước yêu cầu phát triển trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xã vẫn còn rất nhiều hạn chế. Hạ tầng kinh tế - xã hội ở địa phương nhìn chung chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp toàn diện để nâng cao chất lượng nông sản theo hướng hàng hóa đáp ứng yêu cầu thị trường. Cơ cấu kinh tế còn thuần nông, chuyển dịch còn chậm, chưa có mô hình bền vững và tạo được hiệu quả kinh tế rõ nét. Nguồn vốn đầu tư cho phát triển sản xuất trong nhân dân còn hạn chế. Sản xuất nông nghiệp còn chịu lệ thuộc rất lớn vào thiên nhiên, trong khi điều kiện về khuyến nông và ứng dụng khoa học kỹ thuật có giới hạn. Các thành phần kinh tế ngoài nông nghiệp dù được tạo điều kiện phát triển nhưng do vị trí địa lý, nguồn vốn nên chưa phát triển mạnh, còn nhỏ lẻ, chưa có tác dụng hỗ trợ cho phát triển nông nghiệp. Vốn đầu tư xây dựng phát triển các dự án hạ tầng nông thôn còn nhiều khó khăn, bất cập. Nhu cầu về phát triển kinh tế cải thiện đời sống, nâng cao văn hóa, giáo dục, y tế và thực hiện chính sách xã hội ngày càng cao trong khi ngân sách còn hạn chế. Mặt trái kinh tế hàng hóa tác động tiêu cực lên các mặt của đời sống xã hội. Tệ nạn xã hội có chiều hướng phức tạp. Một bộ phận cán bộ, đảng viên vẫn còn chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ.
Sang năm 1996, chi ủy tổ chức học tập và quán triệt tinh thần nghị quyết các cấp, mà trực tiếp là nghị quyết của Đảng bộ huyện về “Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển nông nghiệp toàn diện, từng bước công nghiệp hóa sản xuất nông nghiệp, khôi phục và phát triển tiểu thủ công nghiệp” (1). Bằng thực tiễn kinh nghiệm của chặng đường vừa qua và với quyết tâm, nghị lực và niềm tin vững chắc vào sự nghiệp đổi mới, phát huy tiềm năng và thế mạnh về đất đai, lao động, từ nguồn vốn của nhà nước các cấp và các nguồn lực xã hội khác, Phước Tuy đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nhiệp, tạo ra nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển tiểu thủ công nghiệp nhanh hơn.
Trên lĩnh vực kinh tế, xác định sản xuất nông nghiệp là hàng đầu mà trọng tâm là cây lúa, xã tập trung lãnh đạo thực hiện nhiều biện pháp nhằm tạo động lực thúc đẩy hướng đến mục tiêu này. Trước nhất về cơ chế chế chính sách, để tạo động lực trong sản xuất nông nghiệp, xã tiếp tục tổ chức đăng ký, xét lập thủ tục đề nghị cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đai theo tinh thần Nghị định 36/CP và quyền sở hữu nhà ở theo tinh thần Nghị định 64/CP của Chính phủ (1). Xã vận động nông dân thâm canh tăng vụ, chọn giống cho năng suất cao, kháng bệnh, tăng cường áp dụng khoa học kỹ thuật trong canh tác, mở các lớp tập huấn hàng năm và ứng dụng phương pháp IPM để chuyển giao các biện pháp phòng trừ sâu bệnh, kết hợp với các biện pháp thủy lợi như củng cố hoàn chỉnh các cống đầu mối kênh nội đồng, gia cố các mặt đập, đê bao ven sông Vàm Cỏ ... Xã còn tạo điều kiện cho nhân dân vay vốn của Ngân hàng Nông nghiệp và phát triển nông thôn huyện, Ngân hàng Rạch Kiến để tăng cường đầu tư cho sản xuất (2). Tích cực cải tạo đất, tăng diện tích sản xuất, từ năm 1998-1999, nhân dân ở khu vực ven sông Vàm Cỏ thuộc các ấp 1, 2, 4 đã tận dụng điều kiện mưa đầu mùa làm ngọt sớm nước sông Vàm Cỏ, đã mạnh dạn sạ lúa ngắn ngày trên đất “biền” (3) với diện tích 50 ha và thí điểm lúa 2 vụ (Thu Đông) ở các ấp 5, 6 và 7 với diện tích 30 ha. Ngoài ra, khoảng 50 ha khu vực bị nhiễm phèn nặng thuộc ấp 1, 2 bị bỏ hoang trước đây, do hệ sinh thái thay đổi sau thời gian đắp đê bao, thời gian này cũng được đầu tư phân bón thích hợp để gieo trồng. Năm 1998, công trình thủy lợi đập Kinh Xóm Bồ hoàn thành, cùng với đập Bến Trễ tiếp tục đóng vai trò quyết định trong việc góp phần đẩy nhanh quá trình cải tạo đất đai, tăng vụ tăng năng suất và điều kiện sản xuất khác ở Phước Tuy. Nhờ vậy, đến năm 2000, diện tích gieo trồng đạt 1.739 ha, so với năm 1996 tăng 221 ha, năng suất trung bình là 3,8 tấn/ha đối với vụ mùa và Đông Xuân, 3,6 tấn /ha đối với vụ Hè Thu và 3 tấn đối với vụ Thu Đông. Dù vụ mùa và Đông Xuân năm 1999-2000 bị ảnh hưởng bệnh vàng lùn trên toàn bộ diện tích làm thất mùa khoảng 40-45% nhưng vẫn đạt tổng sản lượng 4.760 tấn. Có thể nói rằng, dù thời tiết có diễn biến bất thường, sâu bệnh xuất hiện, nước dâng cao ngoài khu vực đê bao sông Vàm Cỏ gây ngập úng..., nhiều lúc gây khó khăn đến sản xuất, ảnh hưởng đến năng suất và sản lượng, nhưng những nỗ lực về nông nghiệp trong thời gian này vẫn đưa người nông dân vượt lên, đạt kết quả ổn định và tăng cao theo từng năm (4) trong suốt nhiệm kỳ, thậm chí vượt chỉ tiêu nghị quyết đề ra. Bình quân lương thực đầu người luôn ở mức cao, năm thấp nhất là 659kg/người, năm cao nhất là 820 kg/người. Đó là một thành tựu rất quan trọng ở một địa phương mà sản xuất nông nghiệp là mũi nhọn.
Chuyển dịch cơ cấu cây trồng và vật nuôi, khai thác tối đa tiềm năng đất đai và lao động, từ nguồn vốn vay của Ngân hàng Chính sách huyện, xã khuyến khích nhân dân tận dụng đất thổ canh, thổ cư được ngọt hóa bởi công trình đập Bến Trễ và đê bao sông Vàm Cỏ để trồng các lọai rau màu, cây ăn trái, tăng vòng quay của đất, cải thiện bữa ăn và tăng thu nhập. Tuy nhiên, do còn lệ thuộc vào thị trường, kỹ thuật và nguồn nước, rau màu chiếm tỉ trọng không đáng kể trong sản xuất nông nghiệp ở xã và cũng chưa thực sự trở thành sản phẩm hàng hóa. Trong điều kiện giá cả thị trường thức ăn gia súc, gia cầm và giá cả tiêu thụ sản phẩm biến động không có lợi cho người chăn nuôi nên chăn nuôi thời gian này biến động theo tình hình, phát triển khá mạnh vào năm 1996-1998 và có phần chựng lại vào những năm cuối nhiệm kỳ nhưng nhìn chung vẫn được duy trì ở mức khá phát triển, qui mô hộ gia đình với mỗi hộ 1 con heo và 100 con gà, vịt/năm. Một số hộ có tập quán và nghề nuôi vịt đàn theo mùa vụ, đàn gà thả đồng qui mô khá lớn vẫn duy trì hiệu quả. Mô hình nuôi gà đẻ, vịt đẻ qui mô lớn phát triển khá mạnh ở các hộ có kinh nghiệm và có vốn đầu tư, nhiều hộ phát triển theo kiểu trang trại với mô hình khép kín VAC. Nhìn chung chuyển dịch cơ cấu vật nuôi cây trồng có chuyển biến khá rõ và đa dạng hơn, đem lại hiệu quả kinh tế.
Nhờ chính sách của Nhà nước ngày càng thông thoáng, tình hình kinh tế -xã hội của cả nước nói chung tác động tích cực lên đời sống nhân dân, cùng với việc xã tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích, nhân dân đã phát huy tinh thần tự lực, năng động làm cho tiểu thủ công nghiệp phát triển nhanh với các ngành nghề đa dạng hơn như đồ mộc gia dụng, dệt thảm gia công, xe nhang, hồ... Hoạt động thương mại - dịch vụ được tạo điều kiện để phát huy, đáp ứng yêu cầu phục vụ sản xuất và tiêu dùng ở địa phương. Đến năm 2000, toàn xã có khoảng 40 cơ sở, địa điểm dịch vụ-thương mại, 2 nhà máy xay xát lúa hàng hóa và hơn 10 nhà máy nhỏ phân bố trên cả 7 ấp, hơn 10 máy cày lớn nhỏ phục vụ nhu cầu cơ giới hóa trong sản xuất nông nghiệp. Dù chiếm tỉ trọng không lớn nhưng tiểu thủ công nghiệp và thương mại - dịch vụ có bước phát triển quan trọng theo đà phát triển chung, khẳng định là thế mạnh của kinh tế hộ với việc giải quyết việc làm, tăng thu nhập, ổn định đời sống, ngày càng khẳng định vị trí quan trọng trong cơ cấu kinh tế ở địa phương.
Đồng thời với lãnh đạo phát triển kinh tế nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, xã chú trọng xây dựng kết cấu hạ tầng theo hướng đồng bộ, đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới theo tinh thần nghị quyết của Trung ương và Nghị quyết 02 của Tỉnh ủy. Nhờ sử dụng nguồn lao động công ích (1), từ ngân sách đầu tư của Nhà nước, từ nguồn tài trợ của các tổ chức phi chính phủ (UNICEF) và khơi dậy, phát huy nguồn lực trong dân có hiệu quả (2), kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nông thôn như điện đường, trường, trạm, công trình thủy lợi và các cơ sở công ích khác tiếp tục được tu bổ, nâng cấp, đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất và giao thương, nâng cao hiệu quả trên các lĩnh vực kinh tế - xã hội ở địa phương (3). Hầu hết các tuyến kênh nội đồng, cống đầu mối, đê bao sông Vàm Cỏ đều được thường xuyên nạo vét, gia cố. Tất cả các đường giao thông nông thôn huyết mạch và liên ấp, liên xóm đều được nâng cấp, rải sỏi đỏ, lát dalxi măng với tổng chiều dài 20 km. Toàn bộ cầu khỉ đều được xóa, thay bằng cầu bê tông. Lĩnh vực giao thông nông thôn của xã được Bộ Giao thông vận tải tặng bằng khen trong thời gian này. Mạng lưới điện phủ khắp toàn xã với 96% số hộ sử dụng. Thực hiện Chương trình nước sạch, xã xây dựng hồ chứa nước mưa từ nhiều nguồn vốn tài trợ, đưa số hộ sử dụng nước sạch đạt 40%, 100% số hộ có nước ngọt uống trong mùa khô. Dù còn khiêm tốn so với một số địa phương khác nhưng tỉ lệ về sử dụng nước sạch như trên hết sức có ý nghĩa đối với vùng đất luôn gặp rất nhiều khó khăn về vấn đề này trong suốt chiều dài lịch sử. Toàn xã lắp đặt 28 máy điện thoại bước đầu đáp ứng nhu cầu thông tin liên lạc trong nhân dân. Nhiều công trình được xây dựng mới khang trang trong thời gian này như trụ sở Ủy ban nhân dân xã (1995-1996), 7 trạm truyền thanh ấp (2000), Bưu điện văn hóa xã, trạm tế (1998)...
Điểm nổi bật về xây dựng kết cấu hạ tầng ở Phước Tuy trong thời gian này là những công trình trọng điểm về giao thông, thủy lợi do Trung ương đầu tư. Năm 1998, Cầu Hàn – cây cầu quan trọng nhất của tuyến giao thông đường bộ lần đầu tiên được thiết kế bền vững, xây dựng và hoàn thành, phá thế “cù lao” các ấp 1, 2, 3, 4 đem lại sự phấn khởi lớn lao trong quần chúng nhân dân, đáp ứng hiệu quả nhu cầu giao thương và phát triển của địa phương. Cũng trong năm này, Đập Kinh Xóm Bồ cũng hoàn thành, góp phần hiệu quả vào việc đẩy nhanh tình hình cải tạo đất đai tăng vụ, đáp ứng yêu cầu sản xuất nông nghiệp. Đê bao ngăn mặn ven sông Vàm Cỏ Đông với độ dài 3.000 từ Bến đò Xã Bảy đến Kinh Xóm Bồ cũng được hoàn thành năm 1999. Nhờ đó, đợt lũ lụt năm 2000 không ảnh hưởng đến tình hình sản xuất nông nghiệp ở Phước Tuy.
Xác định là khâu quan trọng quyết định ảnh hưởng trực tiếp đến việc điều hành họat động của bộ máy nhà nước và phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật trong quá trình xây dựng nông thôn mới ở địa phương, công tác thu chi ngân sách được tập trung lãnh đạo trên quan điểm tận dụng mọi nguồn thu, bảo đảm công bằng, đúng pháp luật, chi tiêu có trọng tâm, trọng điểm, phát triển cho nguồn thu có tiết kiệm và có tích lũy, đầu tư cho các công trình trọng điểm. Nhờ làm tốt công tác triển khai Luật Ngân sách, tích cực tuyên truyền vận động nhân dân, tập trung khai thác các nguồn thu, quản lý kiểm tra, đôn đốc, xử lý vi phạm, chấn chỉnh, không bỏ sót nguồn thu, suốt nhiệm kỳ, xã luôn đạt và vượt chỉ tiêu đề ra (1). Việc huy động lao động công ích được sử dụng đúng mục đích, tập trung vào và việc đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng.
Thời gian này xã tiếp tục thực hiện công tác quản lý đất đai với trọng tâm nhiệm vụ là đẩy mạnh việc tổ chức đăng ký kê khai để hoàn thành xét giải quyết dứt điểm việc cấp quyền sử dụng đất, tạo động lực trong để người dân tận dụng triệt để tiềm năng đất đai phát triển sản xuất. Đến năm 2000, xã cấp giấy quyền sử dụng ruộng đất cho 1.548/1.593 hộ (đạt 97%), số còn lại chủ yếu là do các hộ xâm canh từ nơi khác đến. Năm 2000, xã hoàn thành công tác tổng kiểm tra đất đai và hoàn thành qui hoạch trình phê duyệt nghĩa trang nhân dân cho 4/7 ấp với diện tích 22.888 m2.
5 năm tiếp tục thực hiện tinh thần nghị quyết của Trung ương và Nghị quyết 02 của Tỉnh ủy về xây dựng nông thôn mới, kinh tế Phước Tuy chuyển biến tích cực. Mũi nhọn sản xuất nông nghiệp phát triển theo hướng đa canh, tăng năng suất kết hợp với nâng cao giá trị sản phẩm hàng hóa nông sản. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp dù chưa mạnh và mức độ chưa cao nhưng đã được nhân dân mạnh dạn thực hiện trong điều kiện cụ thể trên vùng đất dần được cải tạo ở khu vực đập Bến Trễ và sông Vàm Cỏ để đa dạng hóa cây trồng, cải thiện tăng thu nhập bên cạnh cây lúa. Phát triển kinh tế hộ, nhiều gia đình mạnh dạn nuôi gà, vịt theo mô hình công nghiệp, mô hình VAC. Các cơ sở sản xuất tiểu thủ công nghiệp, gia công dịch vụ trên cơ sở đơn vị kinh tế chủ đạo là kinh tế hộ hình thành ngày càng nhiều, hiệu quả và góp phần giải quyết việc làm cho lao động. Thương mại - dịch vụ năng động hơn trong việc phục vụ nhu cầu sản xuất nông nghiệp ở địa phương. Thành tựu nổi bật trong xây dựng nông thôn mới thời gian này là kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội được cải thiện mạnh mẽ nhờ phát huy hiệu quả phương thức “Nhà nước và nhân dân cùng làm” đã làm bộ mặt xã thay đổi rõ rệt và đáp ứng nhu cầu đi lại, giao thương, phục vụ yêu cầu phát triển. Kết quả trên đến từ sự lãnh đạo có trọng tâm, đúng hướng của chi ủy trong việc tận dụng thế mạnh từ sự đầu tư hỗ trợ của trên, phát huy tiềm lực của nhân dân, sử dụng lao động nhàn rỗi gắn với thực hiện các dự án vay vốn hỗ trợ phát triển sản xuất và chăn nuôi, giải quyết việc làm - xóa đói giảm nghèo; tranh thủ có hiệu quả sự hỗ trợ của trên về nông nghiệp qua hệ thống khuyến nông, khuyến ngư, bảo vệ thực vật... để giảm thiểu tối đa tình hình dịch bệnh, rút ngắn chu kỳ sản xuất..., khơi dậy được tiềm lực trong dân, nhất là sự năng động và vai trò kinh tế hộ trong phát triển tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ.
Tuy còn một số mặt hạn chế về khai thác tiềm năng đất đai như vẫn còn diện tích đất hoang, diện tích đất sản xuất cho năng suất thấp còn nhiều (1). Về tính bền vững trong phát triển kinh tế như tốc độ chuyển dịch cơ cấu kinh tế vẫn còn chưa tương xứng so với yêu cầu phát triển. Các mô hình sản xuất, chăn nuôi bước đầu có hiệu quả nhưng chưa đạt được đến sự ổn định và bền vững bởi giá nông sản bấp bênh trong khi chưa có cơ chế bao tiêu cung cầu. Việc quản lý đất đai chưa hiệu quả (2)... Dù vậy, kết quả trên cho thấy kinh tế của xã có bước chuyển quan trọng theo hướng đa dạng hóa, năng động và hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp. Đời sống vật chất của nhân dân được cải thiện, nâng cao và dần có tích lũy, phản ảnh qua việc nhà ở kiên cố, bán kiên cố, máy phóng, máy cày, máy suốt lúa và các phương tiện khác phục vụ sản xuất nông nghiệp, phương tiện thông tin liên lạc, đi lại và sinh hoạt đời sống ngày càng nhiều hơn, phong phú hơn.
Để tạo chuyển biến về văn hóa - xã hội. Xác định tầm quan trọng của nhân tố con người, từ khi có Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) về giáo dục và công nghệ, nhiều biện pháp được tiến hành. Bằng nguồn lực Nhà nước và xã hội hóa, xã tiếp tục đầu tư xây dựng thêm 4 phòng học mới ở ấp 4, sửa chữa, nâng cấp điểm chính, kiên cố hóa trường lớp, bố trí trang thiết bị cho việc dạy và học, xây dựng mối quan hệ trách nhiệm giữa 3 môi trường giáo dục (gia đình, nhà trường và xã hội) chặt chẽ và gắn bó hơn, thành lập và tăng cường trách nhiệm và sự phối hợp của Hội đồng giáo dục xã, hội khuyến học với đoàn thể, nâng cao chất lượng giáo dục về mọi mặt, huy động mọi khả năng để trẻ em trong độ tuổi ra lớp, nâng cao chuyên môn đồng thời với bồi dưỡng chính trị (1), cải thiện đời sống để giáo viên an tâm công tác. Nhờ vậy, đến năm 2000, xã kiên cố hóa trường học với 8 phòng học kiên cố, 5 phòng bán kiên cố, đảm bảo đủ phòng học, không còn tình trạng 3 ca, chất lượng dạy và học được nâng lên với tỉ lệ tốt nghiệp tiểu học các năm đều trên bình quân huyện giao, có nhiều năm đạt 100%, tỷ lệ học sinh bỏ học vì hoàn cảnh khó khăn giảm còn 1, 2%, giảm 1, 58% so với những năm trước đó, số học sinh có đạo đức tốt đạt trên 90%.
Năm 1998, trạm y tế xã được xây dựng kiên cố và đầu tư trang thiết bị đảm bảo cho việc khám chữa bệnh và hộ sản cho dân. Với tinh thần phục vụ nhiệt tình và kinh nghiệm của 2 y sĩ và 1 nữ hộ sinh, trạm y tế xã tạo được sự tin tưởng trong nhân dân địa phương thể hiện qua con số khám bệnh tăng lên hàng năm (2). Các chương trình y tế quốc gia, vệ sinh phòng dịch, chăm sóc bà mẹ trẻ em, tuyên truyền vận động dân số và kế họach hóa gia đình luôn được cấp ủy lãnh đạo sâu sát bằng các biện pháp kiện toàn hệ thống cộng tác viên, lồng ghép với các chương trình khác, tăng cường tinh thần trách nhiệm trong tuyên truyền, thực hiện gương mẫu trong đội ngũ cán bộ, đảng viên... Nhờ vậy, trong những năm này, tiêm chủng mở rộng đạt 97%, ngày vì chất dinh dưỡng đạt 98 %, gần 100 cặp vợ chồng trẻ nắm vững kiến thức kế hoạch hóa gia đình, tỉ lệ các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh đẻ áp dụng các biện pháp tránh thai hiện đại ngày càng tăng, chiếm 48%, 138 cặp vợ chồng có 2 con đăng ký thôi đẻ hẳn, góp phần hạ tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm từ 37, 99 % xuống còn 25%, không có trẻ em suy dinh dưỡng độ 3, không có trẻ em bị xâm hại, hạ tỉ lệ tăng dân số còn 1, 3 %, không có dịch bệnh xảy ra trên địa bàn. Thực hiện các chương trình y tế cộng đồng, ngoài khám chữa bệnh cho dân, cân trẻ hàng tháng, tiêm ngừa thai phụ, chăm sóc thai nhi sau khi sinh theo định kỳ, thời gian này, xã còn kết hợp với các đơn vị tài trợ tổ chức khám bệnh và cấp thuốc miễn phí cho đối tượng chính sách và người nghèo.
Nhờ được đầu tư trang bị hoàn chỉnh hệ thống truyền thanh tại xã và 7 ấp, hoạt động tiếp âm và phát thanh đi vào nề nếp, đảm bảo mỗi ngày 2 buổi, góp phần phục vụ có hiệu quả công tác tuyên truyền đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của địa phương như lao động công ích, tuyển quân, các chương trình quốc gia về y tế, đợt bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân 3 cấp nhiệm kỳ 1999-2004... và kiến thức về đời sống, sản xuất cho nhân dân địa phương. Thực hiện chương trình “Toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư” theo tinh thần Thông tư 04 của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và Chỉ thị 64/CTUB của Ủy ban nhân tỉnh, xã vận động 100% hộ và cơ quan đăng ký thực hiện xây dựng nếp sống văn minh - gia đình văn hóa. Bên cạnh vận động giáo dục phòng chống các tệ nạn xã hội như cờ bạc, mê tín dị đoan, xã tổ chức các cộng tác viên văn nghệ tham gia phong trào, hội thi ở xã huyện, vận động phong trào thể dục thể thao, lập 7 đội bóng của 7 ấp tham gia giải bóng đá nông dân hàng năm, tăng cường quản lý các hoạt động văn hóa theo tinh thần Chỉ thị 814 TTg và Nghị định 87, 88 CP của Chính phủ, đảm bảo quản lý tốt hoạt động lễ hội truyền thống dân gian và tôn giáo để phát huy giá trị văn hóa, nhân văn ở địa phương vào việc đáp ứng nhu cầu tinh thần và làm phong phú đời sống văn hóa nhân dân.
Với nỗ lực thực hiện dứt điểm công tác khen thưởng 3 thời kỳ cho các đối tượng chính sách với tinh thần bảo đảm tính chính xác và thời gian qui định, xã đã hoàn thành hồ sơ đề nghị diện chính sách cho các đối tượng theo tinh thần Nghị định 28/CP và 23/CP (1). Để công tác đền ơn đáp nghĩa được quan tâm, trở thành nhiệm vụ thường xuyên của hệ thống chính trị và toàn xã hội, ngoài đảm bảo thực hiện chế độ, thăm viếng nhân các ngày lễ (27/7), Tết, viếng mộ liệt sĩ, xã vận động quỹ đền ơn đáp nghĩa, xây dựng 9 căn nhà tình nghĩa cho gia đình chính sách gặp khó khăn về nhà ở, trong đó có 2 mẹ Việt Nam anh hùng (riêng do nhân dân đóng góp là 6 triệu đồng), đề nghị xây mộ đá cho 35 liệt sĩ do thân nhân quản lý. Là địa phương còn nhiều người nghèo, công tác xóa đói giảm nghèo được xã chú trọng bằng các biện pháp đề nghị cho hộ nghèo vay vốn ưu đãi, đề nghị trên trợ cấp thường xuyên cho các trường hợp khó khăn và từ quỹ quốc gia xóa đói giảm nghèo do các ngành và đoàn thể hướng dẫn cách làm ăn và tạo vốn, chủ trương xóa đói giảm nghèo - việc làm được thực hiện có hiệu quả qua các dự án cho vay trong nhiệm kỳ, đã giải quyết cho 800 lượt hộ vay với số vốn gần 2 tỉ đồng, góp phần giải quyết việc làm, tăng thu nhập, hộ nghèo giảm xuống theo từng năm (2), đến năm 2000 còn 14%. Các kế hoạch của huyện giao về phòng chống bão lụt, tuyên truyền vận động nhân dân đóng góp giúp đỡ đồng bào bị thiên tai luôn được tiến hành một cách chủ động, kịp thời và hiệu quả (3).
Dù còn một số mặt tồn tại như xây dựng ấp văn hóa còn chậm, vận động quỹ đền ơn đáp nghĩa chưa đạt yêu cầu, chưa có mô hình thực sự hiệu quả và bền vững trong công tác xóa đói, giảm nghèo - việc làm, nhưng cùng với nhịp phát triển của kinh tế, lĩnh vực văn hóa - xã hội đã có những chuyển biến rõ nét, góp phần quan trọng vào việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, củng cố và nâng cao lòng tin của nhân dân với Đảng và Nhà nước.
Xã tiếp tục quán triệt đến toàn hệ thống chính trị và nhân dân địa phương về đổi mới và phát triển kinh tế-xã hội gắn với củng cố vững chắc an ninh-quốc phòng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 3.
Về an ninh, bên cạnh xây dựng lực lượng theo tinh thần Nghị định 40/CP, đảm bảo biên chế, tăng cường nhận thức, quan điểm về quốc phòng - an ninh bằng những biện pháp cụ thể như: học tập về tinh thần cảnh giác trước âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, tăng cường các biện pháp nghiệp vụ như kiểm tra tạm trú, tạm vắng, đăng ký hộ khẩu, đẩy đuổi những phần tử xấu cư trú trái phép, trao đổi kinh nghiệm, củng cố hoạt động tổ chức tổ tự quản, chấp hành nghiêm chỉnh 6 điều dạy đối với ngành…, xã quan tâm đặc biệt đến phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc bằng các cuộc tuyên truyền quần chúng thông qua các tổ chức đoàn thể (1) nhằm nâng cao ý thức cảnh giác trước âm mưu thủ đoạn, phương thức của địch và bọn tội phạm, xây dựng lực lượng nòng cốt (2). Nhờ xây dựng hoàn chỉnh mạng lưới an ninh nhân dân, đẩy mạnh các biện pháp trên và tăng cường nghiệp vụ ngành, công tác bảo vệ an ninh địa bàn, công tác liên tịch với các ngành, các đoàn thể nhằm tạo sự kết dính giữa quốc phòng, an ninh với nhiệm vụ kinh tế-xã hội có hiệu quả và chương trình quốc gia phòng chống tội phạm được triển khai rộng khắp địa bàn, số vụ việc trên địa bàn giảm (3), tình hình chính trị và trật tự an toàn xã hội ở xã được giữ vững ổn định.
Công tác quốc phòng trong thời gian này chủ yếu là nắm nguồn thanh niên để làm tốt công tác tuyển quân. Nhờ tăng cường công tác tuyên truyền Luật nghĩa vụ quân sự và quản lý có hiệu quả thanh niên trong độ tuổi nên công tác tuyển quân qua các năm đều đạt trên 80% chỉ tiêu (4). Xây dựng nền quốc phòng toàn dân, cấp ủy tăng cường lãnh đạo tuyên truyền đề cao cảnh giác trong nội bộ và nhân dân. Căn cứ vào nghị quyết của Huyện ủy về xây dựng kế họach phòng thủ, xã tổ chức lực lượng dân quân đều khắp 7 ấp với tỉ lệ 2, 54% dân số (199 dân quân) ,được quản lý chặt chẽ về quân số, trang bị và biên chế, được tập huấn hàng năm, dự hội thao, tuân thủ chỉ đạo của Ban chỉ huy Quân sự huyện, quán triệt tinh thần sẵn sàng cơ động chiến đấu khi có tình huống xảy ra, đồng thời đảm bảo công tác tuần tra bảo vệ các tụ điểm quan trọng trên địa bàn.
Một sự kiện có ý nghĩa quan trọng trong thời gian này là năm 2000, xã tổ chức lễ đón nhận danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân với hơn 500 đại biểu và nhân dân tham dự.
Hoạt động nội chính có chuyển biến theo hướng tích cực thể hiện qua việc giải quyết các đơn thư khiếu nại tố cáo của công dân, quản lý hộ tịch, nắm biến động về dân số, tư vấn cho các ngành, ban hành các văn bản pháp quy ngày càng đảm bảo hơn về qui trình pháp luật. Năm 1998, xã thành lập câu lạc bộ pháp luật gồm 7 thành viên, được củng cố hoạt động trong suốt nhiệm kỳ với hình thức triển khai, sinh hoạt các văn bản pháp luật bằng nguồn tài liệu trên cấp và công báo của ngành tư pháp. Năm 1999, xã lãnh đạo triển khai hoàn thành tốt công tác điều tra dân số diễn ra vào lúc 0 giờ ngày 1-4-1999. Một nét mới nữa trong công tác nội chính lúc này là công tác tuyên truyền pháp luật trong nhân dân được quan tâm tăng cường (5). Năm 1999, xã triển khai việc công khai hóa những điều dân biết, dân làm theo tinh thần Nghị định 29/CP của Chính phủ, đã tổ chức niêm yết, công khai tại trụ sở Ủy ban nhân dân các văn bản chỉ tiêu kế hoạch Nhà nước trong việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương, xây dựng các tổ tự quản, qui ước, hương ước ở khu dân cư, tạo thông tin hai chiều, phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Dù tệ nạn xã hội có chiều hướng gia tăng và phức tạp, công tác xử lý thanh niên vi phạm Luật Nghĩa vụ quân sự và Nghị định 24/CP nhiều lúc chưa nghiêm, nhận thức, trách nhiệm và chất lượng của dân quân tự vệ, dân phòng chưa cao do bất cập về chế độ đãi ngộ, một bộ phận người dân chưa ý thức cảnh giác..., làm ảnh hưởng đến mức độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của lĩnh vực này, nhưng những nỗ lực trên đã góp phần quan trọng vào việc ổn định an ninh chính trị và trật tự xã hội, tạo thuận lợi cho nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương.
Với nhận thức “chính quyền cấp xã có vị trí rất quan trọng vì đây là nơi trực tiếp tổ chức thực hiện mọi đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nơi mọi người trực tiếp bày tỏ nguyện vọng và thực hiện nghĩa vụ, quyền lợi công dân của mình”, từ năm 1996, chi ủy thực hiện tổng kết, rút kinh nghiệm việc thực hiện Nghị quyết Trung ương 3 về chỉnh đốn Đảng và Nghị quyết 02 của Tỉnh ủy về xây dựng xã, phường, và đánh giá tình hình và thực trạng của xã, đề ra những biện pháp củng cố toàn hệ thống chính trị cho giai đoạn 1996 - 2000 nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, mở rộng và phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực đời sống kinh tế-xã hội của địa phương. Đặc biệt, sau khi triển khai Nghị định 09-CP của Chính phủ năm 1998 qui định về biên chế, chức danh và chế độ bảo hiểm xã hội, tinh thần trách nhiệm trong cán bộ xã được nâng cao rõ rệt.
Sau cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân ba cấp nhiệm kỳ 1999 - 2004, cơ quan quyền lực nhà nước của xã có phó chủ tịch hoạt động chuyên trách. Các kỳ họp được tổ chức đầy đủ với nội dung thiết thực và sát thực tế hơn. Việc cụ thể hóa nghị quyết của chi bộ ngày càng sát hợp với tình hình kinh tế-xã hội ở địa phương và phù hợp với ý chí, nguyện vọng của dân. Các đại biểu Hội đồng nhân dân nhờ được bồi dưỡng kiến thức cơ bản, đã nhận thức đầy đủ hơn về chức năng giám sát việc quản lý và điều hành bằng pháp luật của chính quyền. Vai trò đại biểu vì vậy cũng được phát huy, có trách nhiệm, phản ánh được những vấn đề, nguyện vọng của dân với cấp ủy và chính quyền. Công tác tiếp xúc cử tri có thực chất, thể hiện ở thái độ lắng nghe ý kiến đóng góp, đề bạt của nhân dân trong việc xây dựng nghị quyết.
Ủy ban nhân dân xã được củng cố theo tinh thần Nghị định 09 của Chính phủ về kiện toàn bộ máy quản lý hành chính nhà nước cấp xã, đã tăng cường công tác quản lý, điều hành, bám sát nghị quyết chi bộ, Hội đồng nhân dân, nắm thực tiễn, chỉ đạo các ngành chức năng thực hiện có hiệu quả các kế hoạch, chương trình tháng, quí, năm. Trong thực hiện chức năng quản lý nhà nước, Ủy ban nhân dân làm tốt việc hướng dẫn các thành phần kinh tế trong việc tổ chức sản xuất, kinh doanh và các hoạt động khác đúng qui định pháp luật. Từ sau khi thực hiện chế độ bầu cử dân chủ chức danh trưởng ấp, xã chọn đúng người, có uy tín và năng lực, làm cho vai trò cấp ấp được nâng lên, giúp Ủy ban nhân dân nắm bắt tình hình ở cơ sở nhanh chóng và kịp thời. Hai năm thực hiện cải cách thủ tục hành chính đã từng bước giảm bớt một số khâu trung gian, thủ tục rườm rà, giảm phiền hà cho các tổ chức và nhân dân. Nhờ niêm yết công khai thủ tục hành chính, quan hệ hành chính trở nên thuận lợi và nhanh chóng hơn. Phong cách làm việc và thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ cũng chuyển biến theo hướng tích cực, có trách nhiệm.
Về công tác vận động quần chúng, bên cạnh củng cố kiện toàn tổ chức, phát triển hội viên (1), chi ủy quan tâm chú trọng lãnh đạo Mặt trận và đoàn thể tổ chức tuyên truyền học tập chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cho quần chúng, hội viên, đoàn viên theo tinh thần Chỉ thị 30/CT/TW của Bộ Chính trị và Nghị định 29/NĐ/CP của Chính phủ về việc xây dựng và thực hiện qui chế dân chủ ở cơ sở với nội dung “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” làm cho quần chúng nhận thức sâu sắc hơn quyền làm chủ của mình, qua đó phát huy vai trò của quần chúng trong mọi mặt họat động của đời sống xã hội, góp phần thiết thực vào nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương. Mặt trận và đoàn thể có nhiều nỗ lực trong việc vận động các nguồn lực trong nhân dân để thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, nhất là về xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Cùng với việc hình thành các tổ nhóm đa dạng theo ngành nghề, sở thích để tập hợp quần chúng, thực hiện Chỉ thị 42-CT/TW, xã thành lập Hội Người cao tuổi, Hội Chữ thập đỏ, Ban công tác tôn giáo, cùng với Mặt trận và đoàn thể làm nòng cốt trong việc vận động phong trào, công tác tôn giáo, huy động các nguồn lực xã hội, góp phần vào nhiệm vụ phát triển kinh tế xã - hội, an ninh - quốc phòng và xây dựng Đảng, chính quyền trong thời gian này. Trong đợt bầu cử Quốc hội và Hội đồng nhân dân 3 cấp nhiệm kỳ 1999-2004, Mặt trận thể hiện vai trò khá rõ nét của mình trong việc tuyên truyền chủ trương của Đảng và Nhà nước, tổ chức hiệp thương giới thiệu người ra ứng cử, tổ chức lấy ý kiến, tổ chức cho dân học Luật bầu cử, góp phần vào thành công của cuộc bầu cử trên địa bàn với gần 100% cử tri đi bầu. Qua đánh giá phân loại hàng năm của tổ chức cấp trên, hoạt động của Mặt trận và đoàn thể có cải thiện và nâng lên, đạt loại khá.
Tuy chưa ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, vẫn còn tình trạng hành chính hóa trong hoạt động, chất lượng nội dung sinh hoạt chi tổ hội chưa cao, phương thức chậm đổi mới, nhưng Mặt trận và đoàn thể với những gì đạt được trong thời gian này dần khẳng định vai trò trong hệ thống chính trị ở địa phương.
Mặt trái của cơ chế thị trường, tình hình thế giới diễn biến phức tạp, cộng với những khó khăn trong nước và sự chống phá của các thế lực thù địch bằng âm mưu thủ đoạn “diễn biến hòa bình” đã tác động không nhỏ đến tư tưởng chính trị của cán bộ, đảng viên và nhân dân địa phương. Trong bối cảnh ấy, công tác chính trị tư tưởng được xác định là nhiệm vụ hàng đầu trong xây dựng Đảng. Các nghị quyết của Đảng trong thời gian này của Ban chấp hành Trung ương, Tỉnh ủy, Huyện ủy, đặc biệt là nghị quyết 09 của Bộ Chính trị, các chuyên đề Nghị quyết 6 (2)... sau khi được huyện ủy tổ chức triển khai quán triệt, chi ủy chi bộ. Tùy theo đối tượng đã tổ chức học tập, nghiên cứu trong cán bộ đảng viên bằng hình thức thích hợp để nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác-Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Việc nắm bắt tình hình tư tưởng trong nội bộ để kịp thời uốn nắn những lệch lạc trong nhận thức cán bộ, đảng viên cũng được cấp ủy quan tâm sát sao. Nhờ vậy, đa số cán bộ, đảng viên có tư tưởng chính trị vững vàng, nhất quán trong nhận thức và hành động.
Về tổ chức cán bộ, sau cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân 3 cấp và bầu cử trưởng ấp, chi ủy lãnh đạo sắp xếp lại bộ máy ở xã theo tinh thần Nghị định 09 của Chính phủ, đã kiện toàn thêm một bước theo hướng tinh gọn, hoạt động đúng chức năng nhiệm vụ, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, nghiêm túc chấp hành các chế độ nguyên tắc về sinh hoạt Đảng. Thực hiện nghị quyết của Huyện ủy về đào tạo, bố trí sử dụng cán bộ giai đoạn 1996 - 2000 và những năm tiếp theo, chi bộ xây dựng kế họach đào tạo cán bộ chủ chốt. Các đồng chí trong chi ủy được đào tạo trung cấp lý luận chính trị, quản lý nhà nước. Ngoài ra, trưởng phó ngành, đoàn thể còn được tập huấn chuyên môn thường xuyên. Nhờ vậy, năng lực cán bộ được phát huy, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị đề ra. Trong nhiệm kỳ này,chi bộ với 5 Tổ Đảng đặc biệt quan tâm phát triển đảng viên, đã kết nạp 14 đảng viên mới, đưa số đảng viên của chi bộ từ 28 đảng viên năm 1996 lên 42 đảng viên năm 2000, đồng thời bồi dưỡng 32 quần chúng ưu tú là đối tượng Đảng. Năm 2000, chi bộ Phước Tuy được nâng lên thành Đảng bộ, đánh dấu bước trưởng thành mới của tổ chức Đảng ở địa phương.
Triển khai kế họach của Huyện ủy về thực hiện cuộc vận động chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (lần 2), từ năm 1999, chi bộ tăng cường quản lý, phân công đảng viên phụ trách địa bàn khu dân cư, phụ trách các ngành. Cấp ủy còn chấn chỉnh sinh hoạt lệ kỳ theo tinh thần Nghị quyết 03 của Trung ương Đảng, Chị thị 15 của Ban thường vụ Tỉnh ủy. Nhờ đó, nội dung, chất lượng sinh hoạt, việc chấp hành sự phân công, phân nhiệm của cấp ủy trong cán bộ, đảng viên cũng được nâng lên. Trong thực hiện cuộc vận động chỉnh đốn Đảng, chi bộ đảm bảo qui trình và giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, tăng cường công tác kiểm tra việc chấp hành nghị quyết và điều lệ Đảng, nhờ vậy, qua phân loại đảng viên trong nhiệm kỳ, không có đảng viên phân loại không hoàn thành nhiệm vụ.
Đổi mới phương thức lãnh đạo và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, chi ủy xây dựng chương trình, kế hoạch công tác, hàng tháng và lãnh đạo điều hành bằng nghị quyết. Trong việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và Nhà nước, nghị quyết của trên, chi bộ luôn căn cứ vào tình hình thực tế địa phương, cơ sở để vận dụng, đồng thời xác định tinh thần tự lực là chính, không ỷ lại, trông chờ vào cấp trên; trong xây dựng nghị quyết, kế hoạch luôn xác định nhiệm vụ trọng tâm và chỉ đạo chính quyền, đoàn thể cụ thể hóa bằng kế họach cụ thể để tập trung thực hiện có hiệu quả, đồng thời có kiểm tra, sơ kết đánh giá rút kinh nghiệm hàng quý, năm và đưa ra phương hướng nhiệm vụ tiếp theo. Mối quan hệ các cấp, các lĩnh vực được phân định, không “lấn sân”, bao biện làm thay nhưng vẫn cộng đồng trách nhiệm và không buông lơi vai trò lãnh đạo.
Công tác xây dựng Đảng của xã trong thời gian này dù vẫn còn một số hạn chế như sinh hoạt Đảng nhiều lúc chưa đảm bảo dù có chấn chỉnh theo tinh thần Nghị quyết 03 của Trung ương Đảng, Chị thị 15 của Ban thường vụ Tỉnh ủy, giáo dục chính trị tư tưởng còn chung chung, chưa đi vào chiều sâu, còn ỷ lại trông chờ Đảng cấp trên, trình độ, nhận thức và năng lực triển khai nghị quyết cấp trên trong tập thể chi ủy, chi bộ không đồng đều...., nhưng không thể phủ nhận rằng thành tựu đạt được trên các lĩnh vực trong thời gian này có nguyên nhân cơ bản từ vai trò lãnh đạo của cấp ủy Đảng địa phương trong việc từng bước nâng cao năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Điều đó được thể hiện ở việc cấp ủy xã đã triển khai nghị quyết cấp trên phù hợp vào điều kiện cụ thể ở địa phương, đã lãnh đạo chính quyền tổ chức thực hiện đạt được những kết quả cụ thể về chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng nâng cao hiệu quả sản phẩm nông sản đáp ứng thị trường, nâng dần vai trò của kinh tế tiểu thủ công nghiệp và thương mại - dịch vụ, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội phục vụ sản xuất ở vùng nông thôn mới từng bước được cải thiện và nâng lên, chính sách xã hội được tổ chức thực hiện ngày càng tốt hơn, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, giảm hộ nghèo, tăng hộ khá giàu, quốc phòng - an ninh được củng cố. Với công tác vận động quần chúng, cấp ủy tăng cường lãnh đạo bằng nhiều biện pháp, đã đưa Mặt trận và các đoàn thể vượt qua thời kỳ yếu kém, củng cố tổ chức, phát triển hội viên và hoạt động từng bước đi vào có nội dung, thiết thực, góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Nhìn lại giai đoạn 1996 - 2000, có thể thấy Đảng bộ và nhân dân Phước Tuy đạt được những thành tựu quan trọng trên tất cả các mặt: Kinh tế nông nghiệp có sự chuyển dịch cơ cấu theo hướng hiệu quả, hiệu quả phát triển của văn hóa - xã hội rõ nét hơn, góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, quốc phòng - an ninh được củng cố, hệ thống chính trị có nâng lên về sức chiến đấu của Đảng và năng lực quản lý xã hội bằng pháp luật của Nhà nước.
Nhưng việc triển khai thực hiện nghị quyết đề ra trong giai đoạn này luôn chịu tác động bởi những vấn đề nảy sinh mới mẻ và liên tục trong cơ chế kinh tế thị trường năng động, nhưng cũng đầy bất ổn, trong khi kinh nghiệm quản lý trong giai đoạn mới của cán bộ, đảng viên có những mặt còn hạn chế, cần phải tiếp tục nâng lên để đáp ứng yêu cầu mới. Chính vì vậy, kinh tế của xã có phát triển nhưng thiếu sự cân đối hài hòa trong cơ cấu và giữa các ngành ngành nghề. Địa bàn giáp ranh thị trấn trung tâm huyện nhưng tiểu thủ công nghiệp chưa phát triển, chiếm tỉ trọng nhỏ trong cơ cấu chung. Thế mạnh là nông nghiệp với cây lúa nhưng vẫn còn diện tích đất sản xuất 1 vụ, năng suất chưa cao. Chăn nuôi chưa cân đối với trồng trọt và chưa là thế mạnh kinh tế trong đại bộ phận kinh tế hộ gia đình. Đời sống một bộ phận nhân dân, trong đó có gia đình chính sách còn khó khăn. Phân hóa giàu nghèo xuất hiện và bắt đầu có khoảng cách. Công tác xây dựng nếp sống văn minh gia đình văn hóa chưa đi vào chiều sâu và lan tỏa. Một số đảng viên chưa phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu, thiếu gắn bó với quần chúng, một số chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
Tồn tại đó đặt ra những vấn đề mà toàn Đảng bộ phải rút kinh nghiệm trong giai đoạn kế tiếp. Đó là:
Về xây dựng nghị quyết, phải cần tránh tính tràn lan, chung chung, mà nên chọn mô hình, khâu đột phá, chọn nhân tố tích cực, những vấn đề bức thiết trên các lĩnh vực để phát triển kinh tế - xã hội, củng cố an ninh - quốc phòng và xây dựng hệ thống chính trị. Vì vậy, việc quán triệt nghị quyết và nhiệm vụ chính trị ở địa phương phải được tiến hành ở mọi cấp độ, từ cấp ủy đến quần chúng nhân dân để làm nền tảng nhận thức, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Trong tổ chức thực hiện, cần phải cụ thể hóa nghị quyết bằng chương trình, kế hoạch cụ thể; phải xem công tác vận động quần chúng là nhiệm vụ chung và xuyên suốt, từ đó phải xem trọng và đề cao hơn nữa công tác vận động quần chúng ở tất cả các lĩnh vực nhằm phát huy mọi nguồn lực xã hội; phải phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống chính trị đi đôi với phân công trách nhiệm là công tác kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, khen thưởng và xử lý, phê bình kịp thời.
Bố trí cán bộ phải phù hợp với khả năng và xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ. Phát triển Đảng phải chú trọng đến trình độ, đào tạo gắn với qui hoạch, đảm bảo có tính kế thừa và gắn với thường xuyên xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Đó là những vấn đề thực tế đặt ra cho Đảng bộ và nhân dân Phước Tuy cần phải khắc phục và phát huy để bước vào thiên niên kỷ mới.
3. Đại hội Đảng bộ xã lần VIII và những mục tiêu nhiệm vụ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn (2001 - 2005)
Sau 15 năm đổi mới (1986 - 2000), 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội (1991- 2000), “Đất nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, vượt qua được cơn chấn động chính trị và sự hẫng hụt về thị trường do những biến động ở Liên Xô và Đông Âu gây ra; phá được thế bị bao vây cấm vận, mở rộng được quan hệ đối ngọai và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế; không để bị cuốn sâu vào cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế ở một số nước châu Á mặc dù hậu quả của nó đối với nước ta cũng khá nặng nề; tình hình chính trị - xã hội cơ bản ổn định; quốc phòng - an ninh được tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của nước ta đã lớn hơn nhiều so với mười năm trước” (1).
Xuất phát từ tình hình đó, Đảng ta xác định đường lối kinh tế là: “ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp; ưu tiên phát triển lực lượng sản xuất, đồng thời quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ nội lực, đồng thời tranh thủ các nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững; tăng trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường quốc phòng - an ninh” (2), với mục tiêu tổng quát của kế hoạch 5 năm 2001 - 2005 được xác định là: “Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững; ổn định và cải thiện đời sống nhân dân, chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Nâng cao rõ rệt hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố con người, tạo nhiều việc làm; cơ bản xóa đói, giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các tệ nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, hình thành một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia” (1).
Ở địa phương, Đảng bộ tỉnh xác định mục tiêu giai đoạn 2001 - 2005 là: “Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế, phát huy cao độ nội lực, kết hợp với tranh thủ nguồn ngoại lực, đặc biệt chú trọng ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội nhằm nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất, tăng sức cạnh tranh trên thị trường, đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế một cách vững chắc; bồi dưỡng và phát huy nhân tố con người; ổn định dân sinh vùng lũ lụt; giải quyết việc làm, xoá đói giảm nghèo, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; kết hợp phát triển kinh tế - xã hội với tăng cường tiềm lực kinh tế, quốc phòng, bảo vệ vững chắc an ninh quốc gia, đảm bảo sự ổn định chính trị trật tự và an toàn xã hội” (2).
Đảng bộ và nhân dân Phước Tuy bước vào những năm đầu của thế kỷ XXI trong điều kiện đời sống nhân dân được cải thiện và nâng cao cùng niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng ngày càng được củng cố bởi tình hình chính trị đất nước ổn định và thành tựu của 15 năm đổi mới đã và đang đi vào cuộc sống. Đó thực sự là điều kiện thuận lợi có tính chất nền tảng để tạo động lực cho sự phát triển. Chủ trương của Đảng ngày càng thể hiện tính định hướng rõ nét, chính sách, cơ chế của Nhà nước ngày càng thông thoáng cụ thể, được triển khai thực hiện đi vào cuộc sống làm cho kinh tế của xã trở nên năng động hơn, các điều kiện về văn hóa - xã hội được cải thiện, tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ổn định, hệ thống chính trị được củng cố và kiện toàn, có bước nâng lên về năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Đảng bộ đoàn kết, nhân dân có truyền thống cách mạng, lao động cần cù và ngày càng tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng, nay đang phát huy năng lực ấy vào sự nghiệp làm giàu cho vùng đất vốn còn nhiều tiềm năng đất đai và lao động.
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản trên, Phước Tuy chịu nhiều ảnh hưởng tiêu cực bởi tình hình thế giới vẫn còn diễn biến phức tạp, tác động của mặt trái cơ chế thị trường ngày càng gay gắt, tệ nạn xã hội có xu hướng gia tăng, thời tiết khí hậu bất ổn, dịch bệnh phát sinh, giá cả thị trường biến động. Những yếu tố đó sẽ tiếp tục gây khó khăn cho sản xuất nông nghiệp, trong khi điều kiện về vốn, kết cấu hạ tầng phục vụ cho sản xuất nông nghiệp và các điều kiện kỹ thuật khác chưa đáp ứng yếu cầu phát triển cho thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Nhận thức chính trị và năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết của một bộ phận cán bộ, đảng viên không đồng đều, một số chưa ngang tầm với nhiệm vụ. Nhận thức về pháp luật trong nhân dân chưa cao, đời sống một bộ phận nhân dân còn khó khăn. Đó thực sự là những thách thức của Đảng bộ và nhân dân Phước Tuy trong chặng đường phía trước.
Trong bối cảnh ấy, để đánh giá thành tựu cùng những hạn chế và đề ra nhiệm vụ cho giai đoạn mới, từ ngày 26 đến 27 - 9 - 2000, Phước Tuy tiến hành Đại hội Đảng bộ xã lần thứ VIII nhiệm kỳ 2000 - 2005. Đại hội trên cơ sở nhận định khó khăn và thuận lợi khi thực hiện nhiệm vụ của những năm đầu thế kỷ mới, đã đề ra mục tiêu chủ yếu đến năm 2005 là: “Phát huy sức mạnh nội lực xã nhà, nêu cao tinh thần đoàn kết tương thân, tương ái, đẩy mạnh sản xuất toàn diện, đa dạng theo hướng sản xuất hàng hóa để phát triển kinh tế - xã hội, gắn với phát triển đời sống văn hóa lành mạnh, nếp sống văn minh, toàn dân đoàn kết xây dựng cuộc sống mới ở khu dân cư, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa địa phương, giảm hộ nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, đảm bảo an ninh chính trị và trật tư an toàn xã hội, phát triển kinh tế là trọng tâm, xây dựng Đảng là then chốt” (1).
Đại hội cũng đề ra mục tiêu cụ thể cho từng lĩnh vực.
Về kinh tế, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu vật nuôi, cây trồng, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của hàng hóa nông sản nhằm cải thiện đời sống nhân dân, giảm hộ nghèo, tăng hộ khá, giàu. Tập trung đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trên các lĩnh vực thủy lợi, giao thông, giáo dục và phúc lợi xã hội khác. Khai thác tiềm năng lao động và đất đai, phát triển ngành nghề, tạo thuận lợi và hỗ trợ có hiệu quả cho sản xuất nông nghiệp đáp ứng yêu cầu sản xuất của nhân dân.
Về văn hóa - xã hội, đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục, nâng cao chất lượng dạy và học. Tổ chức thực hiện có hiệu quả các chương trình y tế quốc gia, tăng cường vệ sinh phòng dịch, vệ sinh môi trường. Nâng cao chất lượng công tác thông tin tuyên truyền, xây dựng phong trào văn nghệ quần chúng, công tác xây dựng gia đình văn hóa, phát động toàn dân rèn luyện thân thể, tăng cường công tác quản lý hoạt động lễ hội và kinh doanh dịch vụ văn hóa. Thực hiện tốt hơn nữa chính sách xã hội.
Về an ninh - quốc phòng, đẩy mạnh các biện pháp an ninh, đấu tranh ngăn chặn kịp thời mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch, bảo đảm tuyệt đối ổn định về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; xây dựng lực lượng đủ về quân số, mạnh về chất. Làm tốt công tác tham mưu, chủ động đập tan mọi họat động chống phá trong âm mưu “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch trên địa bàn.
Về xây dựng hệ thống chính trị, tiếp tục thực hiện cuộc vận động chỉnh đốn Đảng theo thinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (2), các qui định của Đảng và các nguyên tắc trong sinh hoạt và hoạt động của Đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, nhằm xây dựng tổ chức cơ sở Đảng trong nhiệm kỳ 2000 - 2005 vững vàng về chính trị, kiên định lập trường chủ nghĩa xã hội, vươn lên đảm đương nhiệm vụ trong thời kỳ mới.
Đại hội đề ra một số chỉ tiêu cơ bản đến năm 2005, là:
- Tăng diện tích gieo trồng từ 1.739 ha lên 1.909 ha, năng suất bình quân tăng từ 3,7 tấn/ha lên 3, 9 tấn/ha, sản lượng tăng từ 6.321 tấn lên 7.624 tấn, bình quân lương thực đầu người tăng từ 790 kg/người/ năm lên 950 kg/người/ năm.
- Bình quân mỗi hộ nuôi 1 con heo và 100 con gà, vịt.
- Dal hóa các con đường liên xóm còn lại, thi công hoàn thành kênh N8 đoạn từ cuối ấp 3 đến kênh Xóm Bồ, lắp đặt toàn bộ hệ thống cống trên các trục giao thông chính, hoàn chỉnh hệ thống đê bao sông Vàm Cỏ, cải tạo 100% lưới điện hạ thế bằng trụ bê tông, 98 % hộ có điện sinh họat.
- 100 % hộ đăng ký gia đình văn hóa, 50% số ấp đạt tiêu chuẩn ấp văn hóa cấp huyện.
- Huy động trẻ em ra lớp đạt 100%, tỉ lệ học sinh bỏ học dưới 1%, học sinh giỏi đạt 15 %, thi tốt nghiệp đạt 100%, đạt trường chuẩn quốc gia.
- Tiêm chủng mở rộng đạt 100 %, hộ sử dụng nước sạch đạt 98 %, hạ tỉ lệ phát triển dân số còn 1%.
- Xây dựng 6 căn nhà tình nghĩa, 5 căn nhà tình thương, hộ giàu đạt 40 %, hộ khá đạt 40 %, hộ trung bình 11% và giảm hộ nghèo xuống còn 9 %.
- Tuyển quân đạt 100 % chỉ tiêu, xây dựng lực lượng dân quân tự vệ đạt 2,5 % dân số.
- Kết nạp 20 đảng viên mới. Các ủy viên Ban chấp hành đảng bộ đều được đào tạo trung cấp, 7/7 trưởng ấp là đảng viên. Mỗi năm, Hội nông dân, Đòan Thanh niên kết nạp 50 hội viên, 70% giới nữ là hội viên Hội phụ nữ, 80% hộ trong xã mỗi hộ có 1 hội viên Hội Chữ thập đỏ.
Đại hội đã bầu ra Ban chấp hành Đảng bộ xã nhiệm kỳ 2000-2005 gồm 9 đồng chí, Ban thường vụ gồm 3 đồng chí, do đồng chí Nguyễn Thế Hùng làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Văn Ẩn làm Phó bí thư thường trực và đồng chí Võ Văn Mão làm Phó bí thư phụ trách Chủ tịch Ủy ban nhân dân.
Với quyết tâm tiến nhanh trên con đường phát triển, tạo tiền đề đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn ở địa phương, Đại hội đã kêu gọi toàn Đảng bộ và nhân dân xã nhà tiếp tục phát huy truyền thống anh hùng trong đấu tranh cách mạng, vượt qua khó khăn, thách thức trong thời kỳ mới, chủ động sáng tạo, tập trung sức lực và trí tuệ thực hiện thắng lợi các mục tiêu mà Nghị quyết Đại hội đã đề ra.
3.1. Tiếp tục chuyển dịch cơ cấu kinh tế, nâng cao hiệu quả trên lĩnh vực văn hóa - xã hội.
Từ đầu năm 2001, Đảng bộ nhanh chóng triển khai thực hiện Nghị quyết của Đảng bộ huyện lần thứ VIII và của Đảng bộ xã lần thứ I nhằm khai thác triệt để các nguồn lực để chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phát triển nông nghiệp toàn diện và hiệu quả kinh tế.
Công tác xét cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo tinh thần Nghị định 60/CP và Nghị định 64/CP của Chính phủ của xã cơ bản hoàn thành trong thời gian này. Việc chuyển nhượng, chuyển mục đích sử dụng đất đai luôn được giải quyết kịp thời, hạn chế thấp nhất việc tồn đọng, gây nhũng nhiễu, vì vậy tạo động lực sản xuất cho người nông dân. Xã qui hoạch các ấp 5, 6, 7 là vùng chuyên canh cây lúa đặc sản, đẩy mạnh các biện pháp chuyển giao khoa học kỹ thuật, mở nhiều lớp khuyến nông, thông qua các tổ chức đoàn thể mở các điểm trình diễn giống lúa mới, chọn giống lúa cho năng suất cao và phù hợp với nhu cầu thị trường, xuất khẩu để nâng cao hiệu quả kinh tế, cải tạo và nâng cao hiệu quả các công trình thủy lợi nội đồng để ngăn mặn, xả phèn, xem đó là một giải pháp quan trọng để phát triển sản xuất nông nghiệp. Năm 2002, xã còn đề nghị trên hỗ trợ 50% vốn cho nông dân để chuyển giao 7 máy sạ hàng (hiệu (SRRI) phục vụ sản xuất. Với người nông dân, thời gian này, tính chủ động trong việc áp dụng các biện pháp khoa học kỹ thuật, cơ cấu giống phù hợp với từng lọai đất và năng lực cải tạo đất được nâng lên rất nhiều. Nhờ vậy, ngay trong năm đầu nhiệm kỳ, xã nâng diện tích trồng lúa lên 1.806 ha và giữ vững diện tích gieo trồng này trong suốt nhiệm kỳ với năng suất ổn định, riêng năm 2005 đạt 4 tấn/ha, sản lượng 7.224 tấn (đạt 94% so với nghị quyết), lương thực bình quân đầu người là 886kg/năm. Riêng cây màu phát triển được 2 ha, chủ yếu trên đất thổ cư, thổ canh, nhìn chung nhờ hiệu quả kinh tế gấp 3-4 lần so với cây lúa nên góp phần cải thiện đời sống, tăng thu nhập. Ngoài ra, từ năm 2003, 4 hộ nông dân ở ấp 6, 7 còn đầu tư 1,4 ha trồng dưa hấu ở chân ruộng, tận dụng hiệu quả đất đai và tăng vòng quay của đất đem lại hiệu quả kinh tế.
Có thể thấy rằng, tuy so với nghị quyết đề ra, diện tích, năng suất, sản lượng và bình quân lương thực đầu người không đạt chỉ tiêu nghị quyết đề ra (1) nhưng xét về hiệu quả thì sản xuất nông nghiệp vẫn đạt và vượt bởi ngoài 50 ha “đất chết” thuộc ấp 1, 2, 3 đến thời gian này vẫn chưa thể cải tạo do nhiễm phèn nặng, 50 ha khác không sản xuất lúa là do chuyển dịch cơ cấu cây trồng sang vật nuôi (nuôi tôm sú). Được xác định là trọng điểm trong chuyển dịch kinh tế vùng hạ nói chung, con tôm sú trong thời gian này được mạnh dạn tăng diện tích nuôi trên đất trồng lúa không hiệu quả. Từ năm 2001, xã đã tổ chức 30 hộ nuôi tôm sú và 5 hộ nuôi tôm càng xanh với diện tích 8,7 ha ở khu vực ngoài đê bao sông Vàm Cỏ. Dù thời gian đầu gặp nhiều khó khăn do thiếu kinh nghiệm, nhưng nhờ được tăng cường ứng dụng khoa học kỹ thuật và các điều khác về chọn giống, đầu tư..., đến năm 2005, nuôi trồng thủy sản có bước phát triển khả quan với diện tích nuôi trồng tăng lên 50 ha với 98 hộ nuôi, sản lượng đạt 30 tấn, có trên 70% hộ có lãi, bình quân đạt 28 triệu đồng/ha. Đây là bước đột phá quan trọng trong việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp ở địa phương.
Tiếp tục phát huy mô hình nuôi vịt đàn và gà đất bán công nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế, do giá cả ổn định trong những năm đầu nhiệm kỳ, tình hình chăn nuôi phát triển thuận lợi, ổn định đàn gia súc, gia cầm, từ 758 con heo, 26.760 con gà, vị năm 2001, đến năm 2003 đàn heo tăng lên 1.260 con, đàn gia cầm là 40.100 con và có hướng phát triển theo hướng trang trại. Cuối năm 2004, dịch cúm gia cầm bùng phát, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình chăn nuôi. Để đối phó, xã huy động toàn hệ thống chính trị tập trung dập dịch, đã tiêu hủy hơn 70.000 con gia cầm (2), đồng thời đồng thời hỗ trợ 300 triệu đồng cho dân để phát triển trở lại đàn gia cầm. Tuy vậy, thời gian này nhân dân vẫn e ngại đầu tư, chỉ nuôi nhỏ lẻ để đáp ứng nhu cầu gia đình. Tháng 3-2005, một đợt dịch cúm gia cầm khác lại tái phát, xã phải tiêu hủy 450 con gà, vịt, đến tháng 4 - 2005, dịch cúm gia cầm trên địa bàn xã được khống chế. Trước tình hình trên, đồng thời với tiêm phòng, thông qua các dự án vay vốn của ngân hàng, xã chuyển hướng sang nuôi heo, vỗ béo bò, dê để phục hồi chăn nuôi. Đến năm 2005, đàn heo có 1.400 con, đàn bò hơn 100 con và đàn dê hơn 800 con.
Tiếp tục vận động và khuyến khích, nhất là những hộ có vốn, tay nghề và kinh nghiệm mạnh dạn mở mang các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp, các nghề như mộc gia dụng, xay xát, se nhang, đan dệt... và các dịch vụ khác như vận tải, kinh doanh buôn bán nhỏ phát triển ở mức ổn định. Dù ngành này so với các địa bàn trung tâm chưa phải là thế mạnh, có qui mô nhỏ nhưng tỏ ra khá hiệu quả, nhất là thông qua các dự án giải quyết lao động giảm nghèo - việc làm, đã giải quyết lao động nhàn rỗi, tăng thu nhập, trong đó nổi bật là nghề se nhang gia công, trong những năm đầu tập trung ở các ấp 2, 4 về sau lan rộng khắp xã.
Ngoài kinh phí do tỉnh, huyện hỗ trợ cho các công trình đê bao ven sông Vàm Cỏ, duy tu hương lộ 21, xây dựng hội trường Ủy ban nhân dân, trường mẫu giáo với số vốn trên 1 tỉ đồng, tiếp tục phát huy phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm”, xã đầu tư ngân sách cho xây dựng kết cấu hạ tầng trong thời gian này chủ yếu là giao thông nông thôn, thủy lợi nội đồng và một số công trình sửa chữa nhỏ khác, xem đó là những mục tiêu quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội, trong đó, nhân dân đóng góp 220.576.000đ/1.104.995.000 đ. Năm 2005, công trình Nhà bia ghi danh liệt sĩ xã cũng được hoàn thành.
Thời gian này, Nhà nước đầu tư thêm 1km đường dây điện trung thế ở ấp 2, nhân dân cải tạo mạng lưới điện hạ thế ở ấp 5, khu vực Bà Mười Đạo đạt 98%. Cùng với đà phát triển chung về thông tin bưu điện, điện thọai, mạng lưới điện thọai phủ khắp 7 ấp với 170 máy điện thoại, trung bình đạt 0,1 máy/hộ.
Bên cạnh xây hồ chứa nước mưa, từ năm 2002, từ nguồn đầu tư của Chương trình 135 (1), xã hoàn thành qui hoạch đường ống và đưa nước sạch từ các xã lân cận về phục vụ các ấp 2, 6 và 7 với kinh phí 268.000.000đ triệu đồng, đến năm 2005, tỉ lệ sử dụng nước sạch đạt 60%.
Kết quả đạt được về xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn trong thời gian này là nhờ công tác huy động lao động công ích luôn vượt chỉ tiêu hàng năm (2), và lãnh đạo thực hiện có hiệu quả công tác ngân sách (3). Do làm tốt công tác tuyên truyền vận động, thực hiện đúng qui trình hướng dẫn về tạo vốn, với phương châm đúng nguyên tắc, thực hành tiết kiệm, xã khai thác nguồn thu hiệu quả nên đảm bảo hoạt động của bộ máy đồng thời phục vụ cho nhiệm vụ trọng tâm là xây dựng kết cấu hạ tầng luôn đảm bảo tiến độ và vượt chỉ tiêu hàng năm.
Trên cơ sở qui hoạch chung về đất đai toàn xã, các khu qui hoạch nghĩa trang nhân dân các ấp với diện tích 30.740m2, trung tâm văn hóa xã (2.504m2) và trường cấp I (5.263m2) được hoàn thành. Riêng nghĩa trang nhân dân huyện đã phê duyệt qui chế và tổ chức thực hiện.
Xây dựng kết cấu hạ tầng trong thời gian này đã làm cho bộ mặt nông thôn của xã khang trang hơn.
Tuy nhiên, so với mục tiêu chung đề ra, một số mặt vẫn chưa thực hiện được trong thời gian này. Về xây dựng kinh tế hợp tác theo tinh thần Nghị quyết 07 của Tỉnh ủy chưa thực hiện được dù được tổ chức học tập quán triệt trong nội bộ và ngoài quần chúng nhân dân do nhận thức và điều kiện cụ thể. Điều đó cho thấy cần phải có một mô hình để học tập và vận dụng để phát triển họat động kinh tế này. Tiềm năng đất đai vẫn còn chưa khai thác triệt để. Cụ thể gần 50 ha đất bị nhiễm phèn nặng ở ven sông Vàm Cỏ chưa thể cải tạo. Vấn đề này, bên cạnh nỗ lực tại chỗ phải được sự hỗ trợ từ nguồn lực của trên về nhiều mặt. Sau dịch cúm gia cầm, tình hình phục hồi đàn gia cầm vẫn chưa đạt kết quả như mong muốn, ảnh hưởng đến hoạt động chăn nuôi trong thời gian dài. Mặt khác, kinh nghiệm dập dịch như thế nào để đảm bảo hợp lý, khoa học và tái hoạt động chăn nuôi cũng là một kinh nghiệm sâu sắc không riêng trên địa bàn xã. Tuy nhiên, chuyển biến về kinh tế vẫn là kết quả đạt được rất cơ bản. Nhiệm vụ đặt ra về tăng diện tích sản xuất đồng thời đi đôi với hiệu quả trong cơ cấu cây trồng là rất rõ nét dù 50 ha trong số diện tích đã chuyển đổi sang nuôi tôm. Điều đó cho thấy, năng lực đem lại hiệu quả kinh tế nông nghiệp, cụ thể là cây lúa được nâng lên rất nhiều với năng suất cao hơn và cơ cấu giống hợp lý. Chuyển dịch cơ cấu kinh tế có bước đột phá đúng hướng với việc chuyển đổi diện tích đất trồng không hiệu quả sang nuôi tôm sú, dù còn phải tiếp tục nâng cao năng lực cho hoạt động này nhưng cơ bản đạt hiệu quả kinh tế cao. Tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ dù còn nhỏ về qui mô nhưng ngày càng đa dạng về ngành nghề và hiệu quả kinh tế, tăng thu nhập cho số đông lao động nhàn rỗi, giải quyết việc làm cho xã hội. Sức dân được huy động ngày càng lớn vào việc cùng Nhà nước xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội. Tất cả đã góp phần làm cho kinh tế địa phương tiếp tục tăng trưởng, thu nhập bình quân đầu người tăng lên. Kinh tế nông nghiệp vẫn giữ vai trò chủ đạo nhưng cơ cấu kinh tế tiếp tục có sự chuyển dịch đúng hướng theo hướng hiệu quả và nâng dần tỉ trọng thương mại - dịch vụ, tiểu thủ công nghiệp theo hướng năng động. Bước chuyển dịch này có ý nghĩa quan trọng tạo tiền đề cho địa phương tiếp tục phát triển theo hướng phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn.
Xác định văn hóa “là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế -xã hội”, cuộc vận động phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” theo tinh thần Thông tư 04/TW được quan tâm xây dựng theo hướng nâng cao chất lượng hoạt động, nội dung và hình thức xây dựng gia đình văn hóa gắn chặt với hoạt động ở khu dân cư, có chọn điểm diện, có đầu tư ngân sách, có nội qui, qui ước..., trang bị phương tiện truyền thanh (7 cụm loa), thành lập các câu lạc bộ dưỡng sinh, hoa kiểng, văn nghệ, tăng cường các họat động thi đấu, hội thi, bình xét hàng năm, kịp thời động viên, khen thưởng. Nhờ các giải pháp đó, phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được duy trì thường xuyên và dần đi vào cuộc sống, bước đầu khơi dậy và huy động được nguồn lực trong dân, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân trong việc chung sức xây dựng cộng đồng theo hướng văn minh. Phong trào văn nghệ, thể dục thể thao, nhất là rèn luyện thân thể có nâng lên về chất, thu hút ngày càng nhiều người tham gia. Hằng năm, xã có 100% hộ gia đình đăng ký gia đình văn hóa và số hộ đạt 4 tiêu chuẩn tăng từ 82% năm 2000 lên 94% năm 2005, đồng thời xây dựng 7/7 khu dân cư tiên tiến. Ấp 5 được xã chọn làm điểm xây dựng ấp văn hóa, năm 2001 đạt cấp huyện và đến năm 2005, đạt danh hiệu cấp tỉnh, đạt 100% chỉ tiêu nghị quyết đề ra.
Tăng cường lãnh đạo công tác giáo dục và đào tạo theo tinh thần Nghị quyết Trung ương II (khóa 8), Đảng bộ xã tiếp tục thực hiện phương châm xã hội hóa giáo dục để nâng cao điều kiện cơ sở vật chất phục vụ việc dạy và học, từ năm 2002 đến 2004, đã xây dựng 4 phòng học mẫu giáo, trong đó có 2 phòng ở điểm chính và 2 phòng ở điểm phụ ấp 4 và ấp 7, củng cố chất lượng hoạt động của Hội đồng giáo dục, Hội phụ huynh, Hội khuyến học, kết hợp chặt chẽ ba môi trường giáo dục, nâng cao trình độ giáo viên... Nhờ đó, chất lượng dạy và học được nâng lên với kết quả hàng năm đều cao hơn bình quân của huyện. Từ năm học 2000 - 2001 đến 2004 – 2005, tỉ lệ học sinh mẫu giáo ra lớp từ 79% tăng lên 100%, tỉ lệ trẻ 6 tuổi ra lớp 1 tăng từ 97, 4% tăng lên 100%, tỉ lệ học sinh bỏ học giảm từ 1, 16% xuống còn 0,68%, tỉ lệ học sinh lên lớp hàng năm đạt 100%. Sau nhiều năm gặp khó khăn trong công tác phổ cập giáo dục phổ cập trung học cơ sở, thực hiện Nghị quyết 08 của Huyện ủy (1), năm học 2003-2004, xã thành lập ban chỉ đạo phổ cập giáo dục trung học cơ sở, phân công cán bộ, đảng viên trực tiếp tham gia vận động, đã mở 2 lớp phổ cập (7 và 8) với 23 học viên, hoàn thành công tác này vào năm 2005.
Hoạt động y tế trong thời gian này được thực hiện theo tinh thần Chỉ thị 06 của Ban bí thư Trung ương và Nghị quyết 22 của Huyện ủy với mục tiêu hướng vào nâng cao vai trò y tế cộng đồng, củng cố mạng lưới y tế cơ sở, thực hiện tốt các chương trình mục tiêu quốc gia về y tế vệ sinh phòng dịch, đặc biệt là Chỉ thị 200 Ttg của Thủ tướng Chính phủ về vệ sinh môi trường. Cùng với tăng cường chất lượng khám chữa bệnh ở trạm y tế, Đảng bộ đẩy mạnh lãnh đạo công tác phòng chống bệnh, tuyên truyền kiến thức y tế rộng rãi trong nhân dân, vận động cộng đồng xã hội chú trọng hơn đến việc chăm sóc, bảo vệ và giáo dục trẻ em, nhất là đối tượng khuyết tật, mồ côi, trẻ em suy dinh dưỡng, đồng thời với củng cố ban chỉ đạo và đội ngũ cộng tác viên, tăng cường họat động truyên truyền, thực hiện chiến dịch truyền thông lồng ghép chăm sóc sức khỏe-kế hoạch hóa gia đình... Nhờ vậy, các chương trình y tế quốc gia đều đạt trên 90%, tiêm ngừa 7 bệnh cho trẻ em đạt trên 99% kế hoạch, tỉ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em giảm từ 26,3% năm 2001 xuống còn 16,6% vào năm 2005, dịch bệnh được ngăn ngừa và không để xảy ra trên địa bàn, vệ sinh an toàn thực phẩm được kiểm tra thường xuyên, giải quyết cơ bản tình trạng cầu tiêu trên sông rạch và xây dựng cầu hợp vệ sinh, đúng qui cách, ý thức vệ sinh môi trường trong cộng đồng có chuyển biến qua việc tỉ lệ sử dụng nước sạch ngày càng cao, ý thức dân số, gia đình và trẻ em trong cộng đồng được nâng lên, góp phần giảm tỷ lệ tăng dân số tự nhiên còn 01 %, đạt chỉ tiêu nghị quyết đề ra.
Trong công tác chính sách, Đảng bộ luôn quan tâm lãnh đạo làm tốt nhiệm vụ có tính chất thường xuyên là chi trả trợ cấp và giải quyết các chế độ đãi ngộ đối với cá nhân, gia đình có công với cách mạng đảm bảo kịp thời và đầy đủ. Xã xây dựng quỹ đền ơn đáp nghĩa để từng bước nâng dần ý thức “đền ơn đáp nghĩa” trong nhân dân dần trở thành ý thức của cộng đồng. Việc xét khen thưởng 3 thời kỳ theo tinh thần Nghị định 69/CP, Chỉ thị 26/CP tiếp tục được thực hiện, đã giải quyết các trường hợp còn tồn đọng. Bằng nhiều nguồn vốn hỗ trợ, xã xây dựng 18 căn nhà tình nghĩa (vượt chỉ tiêu nghị quyết đề ra), trong đó có 2 căn là từ vốn xã vận động. Cùng với bia ghi danh liệt sĩ được xây dựng, 2 bộ hài cốt liệt sĩ tiếp tục được qui tập về nghĩa trang liệt sĩ huyện, nhiều gia đình chính sách gặp khó khăn về nhà ở đã được giải quyết và thoát nghèo, ngày kỷ niệm thương binh liệt sĩ 27/7 được quan tâm, dần trở thành ngày kỷ niệm quan trọng của cộng đồng xã hội là điểm ghi nhận trong thời gian này.
Thông qua nguồn vốn vay từ ngân hàng, vốn từ các dự án giải quyết việc làm của đoàn thể, nhân dân trong xã được hỗ trợ khoảng 16 tỉ đồng để tạo thêm việc làm cho người lao động thông qua các hình thức sản xuất, chăn nuôi…Xã còn chỉ đạo các ngành hướng dẫn các hộ nghèo cách làm ăn, áp dụng khoa học kỹ thuật vào chăn nuôi, trồng trọt và thực hiện các dự án lao động ngoài địa bàn, nhờ đó góp phần giảm hộ nghèo từ 16, 2% xuống còn 5, 9%, vượt chỉ tiêu nghị quyết đề ra. Công tác từ thiện xã hội được quan tâm với 4 căn nhà tình thương, 1 căn nhà đại đoàn kết được xây dựng cho người neo đơn.
Dù còn nhiều mặt cần tiếp tục cải thiện và nâng lên như quỹ đền ơn đáp nghĩa chưa đạt yêu cầu (1), vấn đề vệ sinh môi trường theo tinh thần Chỉ thị 200 Ttg của Thủ tướng Chính phủ chưa triệt để, nội dung hoạt động của ban chủ nhiệm ấp văn hóa và các điều kiện về cơ sở vật chất khác trong công tác xây dựng đời sống văn hóa chưa đáp ứng yêu cầu, nhưng những gì đạt được về văn hóa-xã hội cho thấy hiệu quả trên lĩnh vực được nâng lên, góp phần cải thiện đời sống văn hóa tinh thần và chất lượng cuộc sống nhân dân.
3.2. Củng cố quốc phòng - an ninh và xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh.
Trên quan điểm củng cố quốc phòng - an ninh đi đôi với nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, bên cạnh thường xuyên tuyên truyền Luật Nghĩa vụ quân sự, Pháp lệnh Dân quân tự vệ, nhằm nâng cao năng lực chính trị và năng lực chuyên môn trong việc thực hiện nhiệm vụ quốc phòng ở địa phương, Đảng bộ chú trọng giáo dục kiến thức quốc phòng đối với cán bộ chủ chốt và trong thanh niên. Nhờ làm tốt việc quản lý và nắm nguồn chặt chẽ, công tác tuyển quân 5 năm liền đạt 100% chỉ tiêu. Xây dựng lực lượng dân quân xã đạt tỉ lệ 2,3 % dân số, 1 tiểu đội dân quân nữ, được quan tâm huấn luyện đạt 147/181 dân quân. Các lực lượng luôn sẵn sàng cơ động. Việc xây dựng kế hoạch A2 phòng thủ khu vực, diễn tập phòng không, tuần tra bảo vệ cơ quan..., luôn được đảm bảo cùng với các hoạt động tổ chức nói chuyện, sinh hoạt nhằm tăng cường nhận thức và tinh thần cảnh giác trong lực lượng dân quân và trong nhân dân về âm mưu “diễn biến hòa bình”. Chi bộ quân sự được thành lập trong thời gian này gồm 4 đảng viên, trong đó có 1 đảng viên thuộc lực lượng dân quân. Chi đoàn quân sự phát triển được 45 thanh niên. Trong công tác hậu phương quân đội, Đảng bộ còn quan tâm nắm bắt tâm tư tình cảm của lực lượng dự bị động viên, dân quân tự vệ và gia đình để kịp thời động viên, tạo sự an tâm, tin tưởng, đồng thời vận động nhân dân đóng góp để thực hiện “ba tiễn”.
Thực hiện Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị (Khóa VIII) về an ninh quốc gia, năm 2004, Ban Thường vụ Huyện ủy đề ra Nghị quyết 02 về xây dựng thế trận an ninh nhân dân trong toàn huyện. Đảng bộ xã trên tinh thần ấy, bên cạnh lãnh đạo đẩy mạnh các biện pháp về tăng cường giáo dục nhận thức trong đội ngũ công an, ban, tổ tự quản về tinh thần cảnh giác trước âm mưu “diễn biến hòa bình”, gắn chặt hai nhiệm vụ phát triển kinh tế và an ninh - quốc phòng, thực hiện 6 điều Bác Hồ dạy, đã chỉ đạo ngành công an kết hợp cùng Mặt trận và đoàn thể tuyên truyền phát động quần chúng theo tinh thần Nghị quyết này với 105 cuộc, có 7.525 lượt người tham dự. Cũng thông qua Mặt trận và các đoàn thể quần chúng để xây dựng lực lượng nòng cốt, xã củng cố 7 ban an ninh trật tự (71 thành viên), 55 tổ nhân dân tự quản (110 thành viên), 8 đội dân phòng (83 thành viên), 1 đội thanh niên xung kích (15 thành viên). Tất cả đều được tập huấn và đi vào hoạt động. Nhờ vậy, đã ngăn chặn và đẩy lùi có hiệu quả các tệ nạn xã hội, góp phần đảm bảo ổn định tình hình trật tự an toàn xã hội. Các ngày lễ lớn, các sự kiện chính trị trong thời gian này, nhất là năm 2005 được bảo vệ an toàn.
Câu lạc bộ pháp luật của xã hoạt động khá tốt, nhất là công tác phối hợp với Mặt trận, đoàn thể tổ chức tuyên truyền và phổ biến pháp luật, cùng với tủ sách pháp luật được tăng cường thường xuyên (1), nhờ hoạt động tuyên truyền pháp luật đạt hiệu quả (2), các bộ luật mới và luật sửa đổi trong thời gian này như Luật đất đai, Luật xây dựng, Pháp lệnh lao động công ích, Pháp lệnh thi hành án dân sự, Nghị định 121 của Chính phủ về cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa”, Chỉ thị 09 của Bộ Chính trị về giải quyết khiếu nại, tố cáo trong dân không để khiếu kiện vượt cấp... đã đến với cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. 7 tổ hòa giải tại 7 ấp với 44 thành viên được củng cố hoạt động thường xuyên, nhờ vậy, công tác hoà giải được quan tâm và giải quyết hiệu quả ở cơ sở. Công tác tiếp dân, giải quyết hành chính, giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân ngày càng đảm bảo đúng pháp luật, dân chủ.
Nhìn chung, tuy tình hình anh ninh chính trị có diễn biến theo hướng ngày càng phức tạp (3) đòi hỏi cần nâng cao hơn nữa chất lượng phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, nhưng nhiệm vụ quốc phòng - an ninh thời gian này đảm bảo việc bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân, bảo vệ an toàn xã hội, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế-xã hội ở địa phương.
Chú trọng xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, bộ máy chính quyền có những cải cách quan trọng. Hội đồng nhân dân ngày càng khẳng định vai trò là cơ quan quyền lực nhà nước nhờ thể hiện được chức năng giám sát và năng lực cụ thể hóa nghị quyết của Đảng bộ. Năm 2004, Đảng bộ xã lãnh đạo thành công công tác bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp nhiệm kỳ 2004 – 2009 trên địa bàn xã. Đại biểu Hội đồng nhân dân khóa mới được bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, kỹ năng hoạt động để nâng cao năng lực đại biểu. Nhờ đó, việc chuẩn bị các kỳ họp được tiến hành chu đáo hơn, đúng quy định của pháp luật. Văn bản trình tại các kỳ họp được chuẩn bị nghiêm túc và đúng qui trình. Nghị quyết của các kỳ họp đáp ứng nguyện vọng, ý chí của cử tri, gắn với nghị quyết Đảng ủy và thực tế yêu cầu nhiệm vụ kinh tế - xã hội ở địa phương, ngày càng đảm bảo tính chấp hành và tính khả thi trong tổ chức thực hiện. Hoạt động giữa hai kỳ họp như tiếp xúc cử tri, tiếp dân được tổ chức và tiến hành chu đáo hơn, giải quyết kịp thời những thắc mắc, kiến nghị, tâm tư nguyện vọng của nhân dân. Việc giám sát thực hiện nghị quyết đúng quy chế.
Sau cuộc bầu cử Hội đồng nhân dân nhiệm kỳ 2004 - 2009, Ủy ban nhân dân xã được tổ chức lại theo hướng bố trí chức danh cán bộ phù hợp theo tinh thần Nghị định 09/CP và Nghị định 121/CP. Đồng thời với củng cố và kiện toàn bộ máy, đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt được bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước, lý luận chính trị. Nhờ vậy, năng lực cụ thể hóa nghị quyết của Đảng bộ thành các kế hoạch kinh tế - xã hội, năng lực quản lý hành chính nhà nước của Ủy ban nhân dân xã được nâng lên một bước. Cải cách hành chính theo cơ chế “một cửa” sau hơn một năm thực hiện theo tinh thần Quyết định 181/TTg của Thủ tướng Chính phủ, Chỉ thị 18 CT/HU của ban Thường vụ Huyện ủy và Kế họach 55 của Ủy ban nhân dân huyện, bằng các bước đi cụ thể như thành lập ban chỉ đạo, ban hành qui chế và xây dựng các bộ phận thực hiện, tăng cường lãnh đạo theo hướng nâng cao tinh thần trách nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, thực hiện chế độ làm việc theo qui định, công tác này giải quyết hiệu quả nhu cầu quan hệ hành chính của các tổ chức, cá nhân, nhận được sự đồng tình và tin tưởng của nhân dân. Thực hiện pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện cho nhân dân phát huy quyền làm chủ tập thể, các công trình xây dựng kết cấu hạ tầng đều được chính quyền tổ chức lấy ý kiến nhân dân. Cùng với tủ sách pháp luật được tăng cường, việc công khai hóa, mở rộng dân chủ ở cộng đồng dân cư trên nhiều lĩnh vực đã tăng cường mối liên hệ gắn bó và tin tưởng giữa nhân dân với Đảng bộ và chính quyền địa phương.
Dù vẫn còn một số đại biểu Hội đồng nhân dân chưa đáp ứng yêu cầu về năng lực đại biểu, Ủy ban nhân dân còn nặng sự vụ sự việc, vai trò tham mưu chưa được phát huy nhưng bộ máy chính quyền trong giai đoạn này dần khẳng định vai trò quan trọng trong hệ thống chính trị ở địa phương.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết 8B của Ban chấp hành Trung ương khóa VI và Nghị quyết Trung ương 7 khóa IX về đổi mới công tác quần chúng, Đảng bộ bên cạnh quán triệt toàn hệ thống chính trị về tầm quan trọng của công tác quần chúng, đã có nhiều nỗ lực tăng cường lãnh đạo Mặt trận và đoàn thể củng cố, kiện toàn tổ chức từ xã, chi, tổ hội ở ấp, bố trí cán bộ phù hợp, phát triển mạnh hội viên, đoàn viên, đổi mới nội dung và phương thức hoạt động bằng cách đa dạng hóa loại hình tập hợp và gắn với lợi ích quần chúng, hội viên, hướng các hoạt động về khu dân cư thông qua cuộc vận động “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” và “Ngày vì người nghèo”... Nhờ đó đã thu hút mạnh quần chúng nhân dân vào các tổ chức, đưa số hội viên toàn xã lên con số 3.530 (tăng 1.900 hội viên). Thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc, Đảng bộ lãnh đạo Mặt trận và đoàn thể hoạt động theo hướng gần dân, tin dân và có trách nhiệm với dân gắn với tuyên truyền phát động nhân dân thực hiện phong trào đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, xóa đói giảm nghèo, giải quyết việc làm, làm giàu chính đáng, phòng chống các tệ nạn xã hội, góp phần ổn định và nâng cao đời sống nhân dân. Chính sách tôn giáo, dân tộc được thực hiện theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 (Khóa IX) đã phát huy hiệu quả nguồn lực của người trong đạo vào công cuộc đổi mới và phát triển ở địa phương. Thực hiện Chỉ thị 30 của Bộ Chính trị về phát huy dân chủ ở cơ sở, công tác quần chúng đã tạo điều kiện cho nhân dân phát huy quyền làm chủ qua hoạt động như bầu cử, đóng góp ý kiến xây dựng bộ máy Đảng, chính quyền, đóng góp ý kiến xây dựng pháp luật, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, tham gia công tác hòa giải, giám sát công trình xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn và các chương trình dân sinh, xã hội khác. Thông qua các hoạt động trên, đoàn kết lương giáo và trong các tầng lớp nhân dân ở địa phương được tăng cường, đồng thuận xã hội và ý thức cộng đồng nâng lên.
Có thể nói rằng, dù ít nhiều vẫn còn tính hành chính trong hoạt động, chất lượng của một số chi tổ hội còn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, nhưng không thể phủ nhận vai trò cầu nối của Mặt trận và đoàn thể với Đảng và nhân dân đã được phát huy mạnh trong thời gian này. Thông qua các hoạt động trên trong nhiệm kỳ, khối đại đoàn kết toàn dân được củng cố và tăng cường, dân chủ ở cơ sở được phát huy. Tất cả đã tác động tích cực lên nhiều mặt của đời sống xã hội, tạo động lực để quần chúng nhân dân góp phần có hiệu quả vào việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng và xây dựng hệ thống chính trị ở địa phương. Công tác quần chúng thời gian này đã khẳng định vai trò của Mặt trận và đoàn thể trong hệ thống chính trị và trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng nông thôn mới ở địa phương.
Trong công tác xây dựng Đảng thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Đảng bộ xác định chính trị tư tưởng luôn là nhiệm vụ hàng đầu, xem đó là yếu tố quyết định để tạo sự đồng thuận và nhất quán trong Đảng bộ để thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Vì vậy, từ năm 2001, những nội dung của Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Nghị quyết Đại VIII của Đảng bộ tỉnh, và Nghị quyết đại hội VIII của Đảng bộ huyện được Đảng bộ tập trung quán triệt đến toàn thể cán bộ đảng viên trong Đảng bộ và nhân dân, đồng thời với cụ thể hóa nghị quyết của Đảng bộ xã thành nghị quyết tháng, quí, năm, chương trình hành động và các nghị quyết chuyên đề để lãnh đạo tổ chức thực hiện. Công tác giáo dục chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh tùy theo từng đối tượng, được Đảng bộ bố trí học tập bên cạnh thông qua hình thức học tập nghiên cứu, thông tin thời sự, các cuộc họp... Việc nắm bắt diễn biến tư tưởng, tâm tư nguyện vọng của cán bộ, đảng viên và quần chúng cũng được Đảng bộ quan tâm để kịp thời uốn nắn những quan điểm lệch lạc, tạo sự đoàn kết thống nhất hướng đến hoàn thành nhiệm vụ chung. Một nỗ lực mới trong thời gian này là sự ra đời của bản tin thời sự hàng tháng. Cùng với tờ Thông tin tư tưởng của Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy, bản tin thời sự của huyện được phổ biến hàng tháng đến chi bộ, Mặt trận và đoàn thể, bản tin thời sự xã là một bổ sung quan trọng và thiết thực vào nhiệm vụ tuyên truyền, nâng cao tính định hướng tư tưởng chính trị trong nội bộ và nhân dân. Tháng 12- 2004, công trình Lịch sử truyền thống xã Phước Tuy (1930 -1975) được xuất bản sau quá trình dày công sưu tầm, biên soạn đã góp phần quan trọng vào nhiệm vụ giáo dục truyền thống yêu nước và cách mạng ở địa phương. Những nỗ lực ấy trên công tác chính trị tư tưởng đã góp phần hiệu quả vào việc củng cố nhận thức và niềm tin của đại bộ phận cán bộ, đảng viên vào sự lãnh đạo của Đảng và công cuộc đổi mới của đất nước.
Ngay sau đại hội Đảng bộ, Ban Thường vụ và Ban chấp hành xây dựng quy chế làm việc trên tinh thần phù hợp với quy chế của Đảng bộ huyện và sát hợp với tình hình cụ thể của xã theo hướng nâng cao vai trò lãnh đạo và hiệu quả làm việc của Đảng ủy. Đảng ủy phân công nhiệm vụ cấp ủy viên, ngoài công tác chuyên môn đều được phân công phụ trách từng chi bộ. Kiện toàn tổ chức, theo sự hướng dẫn của huyện và từ tình hình thực tế, Đảng ủy xã tiến hành sắp xếp lại các chi bộ phù hợp theo hướng đảm bảo thực hiện hoàn thành nhiệm vụ chính trị được giao. Đến năm 2005, công tác xóa chi bộ ghép được tiến hành ¾ chi bộ (chỉ còn chi bộ ghép ấp 3-4), nâng tổng số chi bộ toàn xã từ 5 chi bộ lên 9 chi bộ.
Nhờ Quán triệt tinh thần Hướng dẫn số 35 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy và Hướng dẫn số 01 của Ban Thường vụ Huyện ủy về hình thức, nội dung và chất lượng sinh hoạt Đảng, sinh hoạt chi bộ có bước cải thiện và nâng lên, thể hiện qua việc chế độ sinh hoạt lệ kỳ được duy trì nề nếp, nội dung sát với yêu cầu thực tế nhiệm vụ ở cơ sở, vai trò lãnh đạo được khẳng định. Việc phân tích chất lượng tổ chức cơ sở Đảng được Đảng bộ lãnh đạo chặt chẽ, đúng quy trình. Qua phân tích chất lượng tổ chức cơ sở Đảng hàng năm, không có chi bộ yếu kém, luôn có trên 80 % đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Việc đổi thẻ Đảng được tiến hành 3 đợt và hoàn thành trong thời gian này. Việc quản lý đảng viên bằng sổ tay đảng viên cũng đã được thực hiện.
Về công tác cán bộ, các chức danh của xã và ấp được bố trí đầy đủ trên tinh thần phân công phù hợp với trình độ, năng lực và điều kiện công tác cụ thể để đảm bảo đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Việc quy hoạch, đào tạo và sử dụng cán bộ dần đi vào nề nếp, tôn trọng nguyên tắc tập thể. Để từng bước chuẩn hóa, nâng cao năng lực, trình độ cho đội ngũ cán bộ, trong nhiệm kỳ, xã đưa đi đào tạo các chương trình lý luận chính trị trung cấp chuyên môn, phổ thông trung học, dự nguồn, bên cạnh các chương trình tập huấn, bồi dưỡng thường xuyên.
Công tác tạo nguồn được Đảng bộ quan tâm đặc biệt theo tinh thần Hướng dẫn số 03 của Huyện ủy về phẩm chất và năng lực. Nhờ nắm nguồn và tổ chức bồi dưỡng hiệu quả, trong nhiệm kỳ, xã phát triển 22/20 đảng viên (110% chỉ tiêu nghị quyết), nâng tổng số đảng viên toàn Đảng bộ lên 61 đảng viên. Tất cả đều được phân công nhiệm vụ gắn với địa bàn dân cư hoặc đóng vai trò nòng cốt trên các lĩnh vực.
Cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 6 (2) và kết luận Hội nghị Trung ương 4 (khóa 9) được Đảng bộ tiếp tục tiến hành từ Thường vụ Đảng ủy, Ban chấp hành đến các chi bộ theo tinh thần đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, nghiêm túc trong việc tự phê bình và phê bình gắn với trách nhiệm và mức độ hoàn thành nhiệm vụ, trên cơ sở trao đổi, tranh luận thẳng thắn để làm rõ và đi đến thống nhất đối với các vấn đề trọng tâm. Công tác quản lý cán bộ, đảng viên từng bước đi vào quy trình, đảm bảo sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng và thực hiện tốt việc phân cấp quản lý cán bộ. Nhờ thực hiện nghiêm, cuộc vận động đã góp phần củng cố mối quan hệ đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ.
Được tăng cường theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (2) xây dựng chỉnh đốn Đảng, công tác kiểm tra Đảng trong thời gian này được Đảng bộ quan tâm thực hiện với chế độ phân công thành viên cấp ủy phụ trách. Ngoài xây dựng kế họach kiểm tra định kỳ và thường xuyên về việc chấp hành nghị quyết Đảng các cấp, điều lệ Đảng, việc thực hiện Quy định 19 của Bộ chính trị về những điều đảng viên không được làm..., còn tiến hành kiểm tra đột xuất theo yêu cầu nhiệm vụ chính trị. Nhờ vậy, đã góp phần nâng cao ý thức chấp hành tổ chức kỷ luật của cán bộ, đảng viên, uốn nắn một số biểu hiện lệch lạc, ngăn ngừa, phát hiện và kiên quyết xử lý kịp thời những trường hợp sai phạm (1), củng cố tổ chức Đảng vững mạnh.
Đổi mới phương thức lãnh đạo, Ban thường vụ và Ban chấp hành xây dựng qui chế làm việc vừa đảm bảo phù hợp với tinh thần qui chế của Đảng bộ cấp trên và tình hình thực tế ở địa phương trên cơ sở vẫn đảm bảo vai trò lãnh đạo của Đảng ủy trong hệ thống chính trị. Việc lãnh đạo được chú trọng bằng chủ trương, nghị quyết, đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, đồng thời với kiểm tra việc thực nghị quyết là kịp thời sơ, tổng kết.
Tuy còn một số mặt tồn tại như việc qui họach đào tạo dù được quan tâm hơn nhưng số cán bộ được chuẩn hóa chưa nhiều, thiếu cán bộ trẻ, cán bộ dự nguồn; vẫn còn hiện tượng nể nang, né tránh trong tự phê bình và phê bình, dẫn đến đảng viên vi phạm; phát triển Đảng vượt chỉ tiêu nhưng chưa đều, vẫn còn tình trạng chi bộ ghép, nhưng kết quả đạt được trong công tác xây dựng Đảng thời gian này là rất cơ bản, khẳng định vai trò hạt nhân của Đảng bộ trong hệ thống chính trị ở địa phương.
*
Có thể thấy rằng, giai đoạn 2001 - 2005 xuất hiện nhiều khó khăn khách quan ảnh hưởng nghiêm trọng đến kinh tế đời sống. Bên cạnh điều kiện thời tiết diễn biến không thuận lợi, giá cả thị trường biến động, nhất là về nông sản trong khi giá vật tư nông nghiệp luôn có chiều hướng tăng làm cho tình hình trồng trọt gặp nhiều khó khăn, dịch cúm gia cầm bùng phát vào cuối năm 2004 rồi tái phát vào đầu năm 2005, ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình chăn nuôi và tình hình kinh tế nói chung. Tuy nhiên, nhờ sự lãnh đạo sâu sát, kịp thời của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân huyện, sự hỗ trợ của các ban ngành, đoàn thể và nỗ lực của toàn Đảng bộ và nhân dân, xã hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị đề ra trong giai đoạn này với các chỉ tiêu về kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng, công tác quần chúng và xây dựng hệ thống chính trị đều đạt và vượt chỉ tiêu đề ra. Cơ cấu kinh tế tiếp tục chuyển dịch theo hướng hợp lý, nhất là về cơ cấu cây trồng, vật nuôi trong nông nghiệp. Kinh tế thương mại - dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp dù chiếm tỉ trọng nhỏ trong cơ cấu chung nhưng ngày càng phong phú, đa dạng và năng động. Đặc biệt, kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và bộ mặt nông thôn được cải thiện đáng kể. Các lĩnh vực văn hóa như điều kiện học hành, trị bệnh được nâng lên về chất, an sinh xã hội được quan tâm, đời sống nhân dân được nâng lên, xóa được đói, giảm hộ nghèo; quốc phòng - an ninh cơ bản ổn định; hệ thống chính trị có sự chuyển biến tích cực theo hướng ngày càng đáp ứng yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp quyền xã hội chủ nghĩa và phát huy dân chủ trong đời sống xã hội.
Đó là kết quả của quá trình ngày càng hoàn thiện về cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước, của sự tiếp thu, quán triệt nghiêm túc nghị quyết của Huyện ủy, kế hoạch của Ủy ban nhân dân huyện và vận dụng một cách linh hoạt và phù hợp vào điều kiện cụ thể ở địa phương, cơ sở, đồng thời lãnh đạo, quản lý điều hành có trọng tâm, trọng điểm, có kiểm tra đôn đốc và phù hợp với nguyện vọng, quyền lợi chính đáng của nhân dân của Đảng bộ và chính quyền xã. Từ đó, sức mạnh tổng hợp của toàn hệ thống chính trị và nhân dân được phát huy vào nhiệm vụ chung.
Tuy nhiên, giai đoạn này cũng bộc lộ những hạn chế, trong đó nổi lên một số vấn đề. Kinh tế tuy có tăng trưởng nhưng chuyển dịch vẫn còn chậm so với yêu cầu và tiềm năng. Do điều kiện thổ nhưỡng và hệ thống thủy lợi chưa hoàn chỉnh, tiềm năng đất đai vẫn chưa được khai thác triệt để. Chương trình nước sạch về đến vùng sâu còn gặp nhiều khó khăn. Phổ cập giáo dục trung học cơ sở chưa thực sự bền vững, do chưa có cơ chế đầu tư. Hoạt động của các ban chủ nhiệm ấp văn hóa còn yếu. Các câu lạc bộ dưỡng sinh, hoa kiểng, văn nghệ cũng ở trong tình trạng này. Phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, chất lượng của lực lượng dân phòng, an ninh nhân dân nhiều lúc chưa theo kịp diễn biến ngày càng phức tạp của tình hình an ninh chính trị và trật tự xã hội. Hoạt động của một số chi, tổ hội nặng tính hình thức. Chất lượng sinh hoạt Đảng có cải thiện nhưng chưa đạt yêu cầu theo tinh thần Hướng dẫn số 01 của Ban Thường vụ Huyện ủy.
Điều đó cho thấy, Đảng bộ xã cần phải tổ chức quán triệt sâu sắc hơn nữa đến toàn thể cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân nghị quyết Đảng bộ các cấp, nhất là nghị quyết của Huyện ủy và Đảng bộ địa phương trong nhiệm vụ khai thác triệt để tiềm năng đất đai, con người và các nguồn lực khác để đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội xã nhà theo hướng bền vững. Phải xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh, giữ vững đoàn kết đi đôi với phát huy dân chủ trong Đảng, thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình. Đảng phải lãnh đạo toàn diện việc xây dựng nghị quyết và chọn khâu then chốt, đột phá để lãnh đạo.
Đó là những kinh nghiệm quan trọng để Đảng bộ Phước Tuy tiếp tục chặng đường tiếp trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn ở địa phương.
4. Bước vào thời kỳ phát triển năng động (2005 - 2010)
4.1. Đại hội Đảng bộ xã lần IX với những chủ trương phát triển kinh tế - xã hội và xây dựng hệ thống chính trị đến năm 2010
Sau 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội IX (2001-2005) và 20 năm đổi mới (1986 - 2006), “Thế và lực nước ta lớn mạnh hơn nhiều so với trước. Việc mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững môi trường hòa bình tạo thêm nhiều thuận lợi cho nhân dân ta đổi mới, phát triển kinh tế-xã hội với tốc độ nhanh hơn” (1). Xác định 5 năm 2006 - 2010 có ý nghĩa quyết định đối với việc hoàn thành Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm đầu thế kỷ XXI và từ những thành tựu và thách thức của tình hình mới, Đảng ta đề ra phương hướng tổng quát cho giai đoạn này là: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử dụng tốt mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng-an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định chính trị-xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển; tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại” (2).
Đảng bộ và nhân dân xã Phước Tuy bước vào những năm cuối của thập niên đầu thế kỷ XXI trong bối cảnh đất nước ta đạt được những thành tựu to lớn sau 20 năm đổi mới. Ở địa phương, những chuyển biến tích cực trên tất cả các lĩnh vực kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng và xây dựng hệ thống chính trị của huyện, đặc biệt sự chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp mang lại hiệu quả trong thời gian này đã mở ra hướng nhiệm vụ trọng tâm trong lãnh đạo của Đảng bộ về phát triển kinh tế những năm về sau, tạo ra sức bật mới cho sự phát triển. Đất đai và lao động còn nhiều tiềm năng, an ninh chính trị - xã hội ổn định, nghị quyết của Đảng, chủ trương, chính sách và hệ thống pháp luật của Nhà nước ngày càng hoàn thiện và phù hợp với tình hình thực tế cuộc sống là nền tảng vững chắc sự phát triển. Sự quan tâm về nhiều mặt của Huyện ủy, Ủy ban nhân dân và các ban ngành, đoàn thể huyện, cùng truyền thống anh hùng trong đấu tranh cách mạng, được thế hệ đội ngũ cán bộ ngày càng trưởng thành hôm nay tiếp tục củng cố và phát huy sẽ là những yếu tố thuận lợi chủ quan có tính quan trọng quyết định đến nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn ở địa phương.
Tuy nhiên, trong bối cảnh chung, xã phải đối mặt với nhiều vấn đề nan giải. Diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và trong nước, tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường cùng những thủ đoạn của các thế lực thù địch trong việc thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình” tác động tiêu cực đến tư tưởng, tâm lý của một bộ phận cán bộ và nhân dân. Sản xuất nông nghiệp với cây lúa là mũi nhọn chiếm tỉ trọng lớn và có vai trò chi phối trong nền kinh tế địa phương nhưng luôn phải chịu nhiều tác động bất lợi về nhiều mặt như thời tiết, dịch hại diễn biến phức tạp, biến động của giá cả thị trường, nhất là giá nông sản và vật tư nông nghiệp không phù hợp, trong khi chuyển dịch cơ cấu trong kinh tế nông nghiệp chưa có điều kiện tạo ra sự đột phá. Tích lũy nội bộ và chất lượng lao động thấp. Nhu cầu về cơ sở vật chất kỹ thuật còn rất lớn trong khi nguồn vốn tại chỗ còn ít, bên cạnh đòi hỏi phải giải quyết tốt các vấn đề xã hội với yêu cầu ngày càng cao hơn. Tội phạm và tệ nạn xã hội ngày càng phức tạp. Tác động của mặt trái cơ chế thị trường làm cho phân hóa giàu nghèo diễn ra ngày càng gay gắt, tiếp tục là thách thức đối việc rèn luyện phẩm chất đạo đức cán bộ, đảng viên. Nhận thức và năng lực tổ chức thực hiện nghị quyết trong hệ thống chính trị là không đồng đều, một số chưa ngang tầm với nhiệm vụ.
Trong bối cảnh ấy, nhằm đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII nhiệm kỳ 2000 - 2005 và đề ra phương hướng, nhiệm vụ cho giai đoạn 2005-2010, tháng 8 năm 2005, Phước Tuy tiến hành Đại hội Đảng bộ lần thứ IX. Sau khi thảo luận, thông qua dự thảo báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Đảng bộ và bản kiểm điểm về vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy nhiệm kỳ 2000 - 2005, trên cơ sở đánh giá thẳng thắn những yếu kém, tồn tại, đồng thời phát huy những kết quả đạt được trong nhiệm kỳ qua, cùng với thế mạnh của địa phương, cũng như dự báo những thuận lợi và khó khăn trong 5 năm tới, Đại hội đã xác định mục tiêu chủ yếu cần tập trung cho giai đoạn này là: “ Tiếp tục đẩy mạnh phát triển nông nghiệp toàn diện theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo hướng đa dạng cây trồng, vật nuôi thích hợp với điều kiện thổ nhưỡng, đất đai ở địa phương để đảm bảo hiệu quả kinh tế, đáp ứng yêu cầu thị trường. Tranh thủ và khai thác hiệu quả các nguồn thu để đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân an tâm đầu tư sản xuất. Phát huy dân chủ ở cơ sở, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, đổi mới phương thức họat động của Đảng, chính quyền và các tổ chức quần chúng. Đổi mới công tác tổ chức cán bộ theo hướng đảm bảo đáp ứng yêu cầu tình hình mới và nhiệm vụ chính trị của địa phương. Giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội, phòng chống tội phạm, tệ nạn xã hội có hiệu quả nhằm tạo môi trường thuận lợi, đảm bảo cho hệ thống chính trị thực hiện hoàn thành nhiệm vụ trong tình hình mới” (1).
Đại hội cũng đưa ra các chỉ tiêu chủ yếu đến năm 2010 là:
- Diện tích gieo trồng: 1.806 ha.
- Tổng sản lượng lúa: 8.127 tấn.
- Mở rộng diện tích trồng màu trên 3 ha.
- Tỉ lệ hộ sử dụng nước sạch: 80%.
- Tỉ lệ hộ sử dụng điện: 98%.
- Sỏi hóa và dal hóa toàn bộ đường giao thông nông thôn.
- Hoàn thành qui hoạch và đưa vào sử dụng nghĩa trang nhân dân các ấp, đảm bảo có qui ước, qui chế.
- Huy động học sinh mẫu giáo và tiểu học đạt 100%.
- Học sinh tốt nghiệp trung học đạt 100%.
- Tỉ lệ học sinh bỏ học dưới 0,5 %.
- Các chương trình y tế quốc gia đạt 100%
- Tỉ lệ tăng dân số: 1%.
- Tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng: 10%.
- Tỉ lệ hộ nghèo: 6%.
- Ấp đạt tiêu chuẩn văn hóa: 7/7 ấp
- Tuyển quân đạt 100%.
- Phát triển 25 đảng viên mới.
Đại hội cũng đề ra những giải pháp trên tất cả các lĩnh vực để đạt đến các chỉ tiêu trên, trong đó có một số nội dung trọng tâm.
Về kinh tế, để phát triển nông nghiệp toàn diện, cần đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi gắn với khai thác triệt để các nguồn lực đầu tư, tăng diện tích trồng màu, mở rộng diện tích nuôi tôm sú khép kín ở khu vực ngoài đê bao ven sông Vàm Cỏ. Để nâng cao hiệu quả sản xuất, cần tăng cường khuyến nông, khuyến khích sử dụng giống lúa mới năng suất cao, đồng thời với quản lý và phát huy tốt hệ thống thủy lợi để đáp ứng yêu cầu thâm canh tăng vụ. Từng bước xây dựng mô hình kinh tế hợp tác trên lĩnh vực sản xuất nông nghiệp và chăn nuôi. Để phát triển chăn nuôi, khuyến khích nhân dân đầu tư vốn và kỹ thuật phát triển mô hình trang trại qui mô vừa và nhỏ, đồng thời tăng cường các biện pháp kiểm soát chặt chẽ dịch cúm gia cầm, từng bước khôi phục lại chăn nuôi gia cầm một cách vững chắc. Đồng thời với phát triển các ngành nghể tiểu thủ công truyền thống là khuyến khích phát triển các ngành nghề kinh doanh dịch vụ, nhất là lọai hình dịch vụ cung ứng vật tư nông nghiệp và hàng tiêu dùng phục vụ sản xuất. Chủ động khai thác các nguồn lực, nhất là về quản lý và sử dụng quỹ đất công để tạo vốn, kết hợp với sự đầu tư của trên và huy động sự đóng góp của dân để thực hiện phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” xây dựng kết cấu hạ tầng theo hướng tập trung cho dal hóa đường giao thông nông thôn, nâng cấp mở rộng hương lộ 21, từng bước hoàn thiện hệ thống thủy lợi nội đồng, đê bao sông Vàm Cỏ, kiên cố hóa trường tiểu học, khoan giếng đưa nước sạch về các ấp 4, 7.
Về văn hóa - xã hội, đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động văn hóa, tăng cường thông tin tuyên truyền, phát huy hiệu quả các đài, trạm truyền thanh, đảm bảo chương trình phát thanh của xã và tiếp âm chương trình của huyện, củng cố phong trào văn nghệ quần chúng, phong trào thể dục thể thao. Để xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 (khóa 8), Kết luận Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 10 (khóa 9), vận động nhân dân thực hiện có hiệu quả cuộc vận động xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, đồng thời với tăng cường quản lý hoạt động của lễ hội dân gian và kinh doanh dịch vụ văn hóa, ngăn ngừa và bài trừ tệ mê tín dị đoan trên địa bàn. Từng bước nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, tăng cường giáo dục truyền thống, đạo đức và nếp sống văn hóa cho học sinh, củng cố và nâng cao chất lượng hoạt động của Hội đồng giáo dục, Hội phụ huynh học sinh và Hội khuyến học, chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, tăng cường công tác lãnh đạo Đảng theo tinh thần Chỉ thị 24 của Huyện ủy, quan tâm bồi dưỡng học sinh giỏi, hỗ trợ học sinh nghèo, tăng cường biện pháp giữ vững công nhận phổ cập giáo dục đúng độ tuổi, phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Củng cố, nâng cao chất lượng khám và điều trị bệnh của trạm y tế, tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện có hiệu quả các chương trình y tế quốc gia, y tế cộng đồng, bảo vệ môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm, không để xảy ra dịch bệnh, nâng cao chất lượng họat động của các câu lạc bộ gia đình. Vận động quỹ đền ơn đáp nghĩa, quỹ vì người nghèo, quỹ bảo trợ trẻ em, thực hiện tốt chính sách đối với người có công, tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình giảm nghèo - giải quyết việc làm, phát huy phong trào đoàn kết tương trợ, hợp tác kinh tế tạo việc làm để từng bước nâng cao đời sống nhân dân.
Về quốc phòng - an ninh và nội chính, tăng cường công tác lãnh đạo Đảng, nhất là công tác chính trị tư tưởng trong lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên theo tinh thần nghị quyết 45/HU của Huyện ủy, đồng thời với nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ quân sự, xây dựng trung đội dân quân cơ động có chất lượng thực là lực lượng tin cậy của Đảng bộ và chính quyền địa phương, tăng cường công tác giáo dục kiến thức quốc phòng cho nội bộ và quần chúng, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội. Thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 3 (khóa 9) về chiến lược bảo vệ an ninh Tổ quốc, Nghị quyết 08/BCT về nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới, xây dựng lực lượng công an thường trực, dân phòng, ban tổ tự quản đủ số lượng, mạnh về chất lượng, đảm bảo làm nòng cốt trong phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, trật tự an toàn xã hội. Xây dựng mô hình điểm trong phong trào đoàn kết tự quản về an ninh trật tự địa bàn không có tội phạm, không tệ nạn xã hội. Tăng cường tiềm lực quốc phòng, hoàn chỉnh kế hoạch tác chiến trị an, thực hiện tốt công tác diễn tập. Lãnh đạo thực hiện Chỉ thị 09/BCT về giải quyết khiếu nại tố cáo công dân, không để xảy ra điểm nóng, đồng thời với phổ biến, giáo dục pháp luật trong nhân dân có hiệu quả qua hình thức câu lạc bộ pháp luật, tủ sách pháp luật và túi sách pháp luật. Củng cố câu lạc bộ pháp luật và các câu lạc bộ đoàn thể làm nòng cốt cho việc tuyên truyền pháp luật. Tăng cường công tác hòa giải ở cơ sở nhằm hạn chế tình trạng đơn thư vượt cấp và giữ gìn sự đoàn kết ở thôn xóm.
Về xây dựng hệ thống chính trị, nâng cao chất lượng họat động của Hội đồng nhân dân theo hướng phát huy chức năng của cơ quan quyền lực Nhà nước đúng luật định, nâng cao vai trò trách nhiệm của đại biểu, tổ đại biểu Hội đồng nhân dân, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng để nội dung các kỳ họp đạt chất lượng và sát hợp với nghị quyết đề ra, hoàn thiện quy chế họat động và kiểm tra giám sát của thường trực, tổ đại biểu và đại biểu Hội đồng nhân dân. Tiếp tục kiện toàn bộ máy nhà nước theo tinh thần Nghị định 121/CP của Chính phủ, đồng thời với tăng cường hiệu quả cải cách hành chính Nhà nước qua cơ chế “một cửa” theo Quyết định 18/QĐ của Chính phủ. Để nâng cao vai trò và hiệu quả của công tác vận động quần chúng, cần tiến hành 5 nội dung: Khảo sát, đánh giá chất lượng của Mặt trận và đoàn thể từ đó đề ra kế họach và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng; Nâng cao chất lượng, nội dung sinh hoạt, củng cố tổ chức, phát triển hội viên và giới thiệu thành phần ưu tú sang Đảng; Đổi mới phương thức tuyên truyền vận động quần chúng; quán triệt Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, về công tác tôn giáo; Thực hiện chỉ thị 30/CT của Bộ chính trị và Nghị định 79/CP của Chính phủ về đẩy mạnh công tác vận động quần chúng, tăng cường thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở. Tiếp tục nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng theo tinh thần Hướng dẫn số 35 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy, Hướng 01 của Huyện ủy, thực hiện có hiệu quả cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 6 (2) và kết luận hội nghị Trung ương 4 (khóa IX), nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng, nâng cao chất lượng đảng viên, tăng cường công tác chính trị tư tưởng bằng cách tập trung củng cố và nâng chất tờ thông tin thời sự của Đảng bộ, nắm bắt dư luận xã hội để kịp thời uốn nắn, định hướng, thực hiện sổ tay đảng viên, quản lý đảng viên nơi làm việc và nơi cư trú, xây dựng mô hình điểm chi bộ ấp vững mạnh toàn diện.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ xã lần thứ IX nhiệm kỳ 2005 - 2010 gồm 9 đồng chí. Ban Chấp hành nhiệm kỳ mới đã họp phiên đầu tiên để bầu ra Ban Thường vụ gồm 3 ủy viên. Đồng chí Nguyễn Thế Hùng được tín nhiệm tiếp tục giữ chức Bí thư Đảng ủy. Các đồng chí Phan Văn Tính làm Phó bí thư thường trực và Võ Văn Mão làm Phó bí thư phụ trách Ủy ban nhân dân.
Nhận thức nhiệm vụ hết sức quan trọng của giai đoạn này, cụ thể hóa nghị quyết của của Tỉnh ủy, Huyện ủy Cần Đước vào điều kiện thực tiễn của địa phương, trên cơ sở kế thừa thành tựu của những năm trước đó, Đảng bộ đã kêu gọi toàn Đảng bộ và nhân dân địa phương phát huy truyền thống cách mạng, đoàn kết, chung sức chung lòng, năng động, sáng tạo, nắm chắc thế mạnh vượt qua khó khăn thử thách, quyết tâm thực hiện hoàn thành mục tiêu nghị quyết đề ra, với quyết tâm đưa xã nhà vững bước trên con đường phát triển.
4.2. Nâng cao hiệu quả kinh tế và tạo chuyển biến về văn hóa - xã hội
Bước vào thực hiện nhiệm chính trị trong giai đọan 2005 - 2010, Đảng bộ và nhân dân xã Phước Tuy đối mặt với những diễn biến mới và nhanh chóng của tình thế giới và trong nước, với những thuận lợi và thách thức đan xen.
Đây là giai đoạn Đảng bộ và nhân dân Phước Tuy tiếp thu tinh thần Nghị quyết Đại hội X của Đảng, Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng bộ tỉnh và Nghị quyết Đại hội IX của Đảng bộ huyện với những định hướng về chuyển dịch cơ cấu kinh tế ở địa phương trong qui hoạch là vùng kinh tế trọng điểm của tỉnh và phía nam, mà cụ thể là Nghị quyết 26 của Trung ương 7 (khóa X) và Nghị quyết 47-NQ/HU của Huyện ủy về “ nâng cao hiệu quả kinh tế nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới”. Cùng với những chủ trương, nghị quyết của Đảng và chính sách pháp luật của Nhà nước ngày càng đáp ứng yêu cầu phát triển, hệ thống chính trị ngày càng được kiện tòan, truyền thống đoàn kết của Đảng bộ và tinh thần lao động cần cù sáng tạo của nhân dân đã và đang được phát huy trên vùng đất còn nhiều tiềm năng về nông nghiệp là những điều kiện thuận lợi rất cơ bản và cụ thể bảo đảm cho yêu cầu phát triển của xã nhà.
Tuy nhiên, trong quá trình đề ra phương hướng và triển khai thực hiện Nghị quyết Đảng các cấp trong giai đoạn 2005 - 2010, dù đã nhận định, tiên liệu khá toàn diện những khó khăn, thách thức phải đối mặt, nhưng có những vấn đề mới phát sinh thuộc về tình hình chung của cả nước và thế giới nên ở địa phương không thể dự báo trước được. Việc nước ta gia nhập tổ chức Thương mại thế giới (WTO), đánh dấu mốc quan trọng quá trình hội nhập của đất nước là thuận lợi và là thời cơ nhưng đồng thời cũng là thách thức mới, mà diễn biến phức tạp của thị trường thế giới và trong nước như lạm phát, giá cả tăng vọt làm ảnh hưởng trực tiếp đến sản xuất đời sống nhân dân, nhất là khu vực có thu nhập thấp, đến lĩnh vực đầu tư xậy dựng kết cấu hạ tầng và các chính sách phát triển nguồn nhân lực ở địa phương. Cộng với những khó khăn nội tại như tốc độ phát triển kinh tế còn chậm, dịch bệnh và thời tiết diễn biến phức tạp, giá cả vật tư tăng cao, chuyển đổi cơ cấu kinh tế còn chậm, chủ yếu là thuần nông, kết cấu hạ tầng nông thôn còn chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất... đã tác động trực tiếp lên mọi mặt của đời sống xã hội ở địa phương từ nửa sau nhiệm kỳ. Đó thực sự là những thách thức không nhỏ của Đảng bộ và nhân dân xã trong giai đoạn này.
Sau đại hội Đảng các cấp, đầu năm 2006, được Huyện ủy quán triệt 8 chuyên đề của Nghị quyết Đại hội X và Chương trình hành động của Đảng bộ huyện thực hiện Nghị quyết Đại hội X, Đảng bộ xã nhanh chóng xây dựng chương trình và kế họach hành động sâu sát tình hình thực tiễn ở địa phương. Từ cơ sở trên và sự nhất quán về chính trị tư tưởng và phương hướng hành động, Đảng bộ phát huy truyền thống cách mạng và đoàn kết, lãnh đạo hệ thống chính trị và nhân dân xã nhà nỗ lực vượt khó, khắc phục hạn chế, phát huy thế mạnh với quyết tâm hoàn thành các mục tiêu đề ra trong giai đoạn nhiều thử thách này, nhất là tình hình suy giảm kinh tế trong bối cảnh chung cả nước.
Về kinh tế, quán triệt tinh thần Nghị quyết 26 Trung ương 7 (Khóa X) và Nghị quyết 47-NQ/HU của Huyện ủy về “nâng cao hiệu quả kinh tế nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới”, Đảng bộ xã chủ trương tiếp tục phát huy nội lực, kết hợp với sự tranh thủ nguồn lực đầu tư của trên để mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng phù hợp với điều kiện đất đai, đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi theo hướng hiệu quả, đa dạng hóa ngành nghề tiểu thủ công truyền thống và dịch vụ, xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn theo hướng hoàn chỉnh đáp ứng yếu cầu phát triển.
Xác định cây lúa vẫn là chủ lực trong kinh tế nông nghiệp, Đảng bộ lãnh đạo tiến hành đồng bộ nhiều biện pháp tạo động lực để đẩy mạnh phát triển sản xuất như qui hoạch, quản lý và sử dụng đất đai theo hướng chặt chẽ và hiệu quả, giải quyết dứt điểm việc cấp quyền sử dụng ruộng đất cho nông dân. Thời gian này, nhờ được trên quan tâm đầu tư, hệ thống thủy lợi tiếp tục được củng cố, nâng lên, nhất là tuyến kinh Cầu bà Mười Đạo hoàn thành đã góp phần làm cho khu vực này tăng diện tích sản xuất thêm 20 ha và tiếp tục cải tạo 20 ha còn lại. Các giống lúa mới cho năng suất cao được ứng dụng. Việc chuyển giao khoa học kỹ thuật, khuyến nông, khuyến ngư được tăng cường đẩy mạnh thông qua các lớp chuyển giao ngắn hạn, hội thảo và dạy nghề (1). Hằng năm, các ngân hàng trong huyện phối hợp với xã tổ chức cho nhân dân vay khoảng 20 tỷ đồng phục vụ sản xuất. Các yếu tố đó làm cho hiệu quả trong sản xuất nông nghiệp được nâng lên. Diện tích trồng lúa đạt 1.806 ha, tổng sản lượng 8.127 tấn, đạt chỉ tiêu nghị quyết đề ra và đạt mục tiêu nâng cao chất lượng sản phẩm nông sản và hiệu quả kinh tế.
Về chăn nuôi, nuôi thủy hải sản mà cụ thể là con tôm sú tiếp tục cho thấy là hướng chuyển dịch cơ cấu trong nông nghiệp mang lại hiệu quả kinh tế. Tuy nhiên do điều kiện thời tiết và môi trường nước bị ô nhiễm trong thời gian này, người dân chủ động gia giảm diện tích nuôi trồng, lúc thấp nhất còn 10 ha vào cuối nhiệm kỳ so với 40 ha trong những năm trước đó. Số diện tích 30 ha được chuyển sang nuôi trồng thủy sản khác. Sau đợt cúm gia cầm tái phát vào năm 2005, xã chủ động tiêm phòng vắc xin cúm gia cầm hai đợt cho gia cầm các loại, chỉ đạo chặt chẽ “ kế hoạch hành động khẩn cấp khi xảy ra dịch cúm gia cầm và đại dịch cúm ở người” theo sự chỉ đạo của trên, vận động nhân dân tuân thủ nghiêm túc các qui trình về phòng ngừa dịch bệnh nhằm kiểm soát chặt chẽ dịch cúm trên địa bàn, đồng thời khuyến khích nhân dân không chăn nuôi gia súc gia cầm nhỏ lẻ mà phát triển theo hướng trang trại tập trung. Nhờ các biện pháp quan tâm trên, từ năm 2008, tình hình chăn nuôi dạng trang trại nhỏ có chiều hướng phát triển tích cực, đến năm 2010, tổng đàn gia cầm phục hồi đạt 20.000 con, gia súc khoảng 5.000 con.
Ngành nghề truyền thống, dịch vụ gia công như mộc, hồ, se nhang, xếp vàng mã... được định hướng phát triển gắn với các dự án hỗ trợ giải quyết việc làm tiếp tục là khẳng định là hoạt động kinh tế dù qui mô nhỏ nhưng hợp lý đã giải quyết lao động việc làm có hiệu quả, góp phần tăng thu nhập và ổn định đời sống nhân dân, nhất là đối tượng lao động nhàn rỗi.
Nỗ lực xây dựng kinh tế hợp tác theo tinh thần Nghị quyết 07 của Tỉnh ủy, xã xây dựng các mô hình hợp tác như tổ máy phóng lúa, máy cày, se nhang, xếp vàng mã, bước đầu cho thấy ưu điểm của loại hình kinh tế này.
Tiếp tục xây dựng kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội ở địa phương trên quan điểm gắn với xây dựng nông thôn mới, xã huy động mọi nguồn lực, trong nhiệm kỳ đã đạt tổng mức đầu tư là 10 tỉ 344 triệu đồng, tập trung vào các công trình trọng điểm về giao thông, thủy lợi và phúc lợi khác như trải nhựa đường huyện 21 (kinh phí 3,1 tỉ đồng), xây trường tiểu học 16 phòng lầu (kinh phí 4 tỉ đồng), trường mẫu giáo (kinh phí 430 triệu đồng), cống ấp 3 (kinh phí 750 triệu đồng), nạo vét 3 con kênh (kinh phí 80 triệu đồng), nâng cao đê bao sông Vàm Cỏ (200 triệu đồng). Phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm” tiếp tục được phát huy với các công trình giao thông nông thôn và dân sinh khác như nâng cấp các cây cầu và 1.500 m trục giao thông liên xóm ấp (tổng vốn 309 triệu, trong đó nhân dân đóng góp 148 triệu đồng và 3.000 m2 với tổng vốn 300 triệu đồng), thi công 9.300 m đường điện hạ thế (tổng vốn 1 tỉ 175 triệu đồng, trong đó nhân dân đóng góp 439 triệu đồng). Việc vận động nhân dân hiến đất mở rộng đường Bờ Mồi nối tỉnh lộ 826 về Ủy ban nhân dân xã cũng được hoàn thành cơ bản trong thời gian này. Đường giao thông được dal hóa và trải sỏi đỏ 100% tạo điều kiện xóa hẳn tình trạng sử dụng trụ điện tạm bợ.
Tiếp tục triển khai chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường theo tinh thần Chỉ thị 29 của Trung ương, kết hợp với các ngành, xã tăng cường xử lý đối với những hộ kinh tế chăn nuôi số lượng lớn bằng cách vận động áp dụng phương pháp Bioga để giải quyết tình rạng ô nhiễm và tạo nguồn chất đốt. Thời gian này, xã khoan thử nghiệm và đưa vào sử dụng 01 giếng nước ngầm ở ấp 7, giải quyết nhu cầu nước sạch cho 150 hộ gia đình ở ấp 7 và ấp 4, đưa nước từ Khu 1C (thị trấn Cần Đước) về phục vụ khu vực Bà Cai (ấp 6). Ngoài ra, trong đợt về nguồn năm 2009, xã được huyện hỗ trợ 126 hồ chứa nước ngọt cung cấp cho gia đình chính sách. Những nỗ lực trên cùng với việc ý thức sử dụng nước sạch bằng cách tự xây hồ chứa trong nhân dân ngày càng cao đã đưa tỉ lệ sử dụng nước sạch của xã tăng từ 60% lên 75 %.
Để quản lý và sử dụng đất đai hiệu quả, đồng thời với giải quyết cấp quyền sử dụng đất và chuyển mục đích sử dụng đất kịp thời, xã tiến hành qui hoạch sử dụng đất đến năm 2010, ngoài các khu nghĩa trang nhân dân đã đưa vào sử dụng, khu trung tâm hành chính, khu dân cư ấp 5 cũng được qui hoạch. Ngoài ra, dự án khu dân cư đô thị và biệt thự nhà vườn cũng được qui hoạch ở ấp 6 với 80 ha.
Cấp ủy tập trung cao trong việc lãnh đạo công tác quản lý nguồn thu và đảm bảo thu đúng theo Luật ngân sách, thu đủ, không bỏ sót nguồn thu, nhất là các nguồn thu phân cấp cho xã, nên thu ngân sách hàng năm đều vượt chỉ tiêu kế hoạch giao (1), đáp ứng yêu cầu chi hoạt động bộ máy và đầu tư phát triển, đảm bảo thực hành tiết kiệm, không để xảy ra tình trạng lãng phí.
Nhìn chung, tình hình kinh tế trong giai đoạn này vẫn còn một số vấn đề quan tâm tháo gỡ. Do nhận thức tự phát của một bộ phận nhân dân về chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp nên việc chuyển đổi vật nuôi cây trồng còn chậm. Hệ thống thủy lợi nội đồng tuy được củng cố nhưng vẫn chưa đáp ứng yêu cầu sản xuất và phục hóa, cụ thể là khu vực cầu Bà Mười Đạo vẫn còn diện tích đất 20 ha chưa thể cải tạo triệt để. Mục tiêu thực hiện cánh đồng có giá trị tăng thêm 25 triệu đồng/ha cũng chưa thể triển khai. Kinh tế hợp tác chỉ dừng lại ở hình thức tổ hợp tác. Chương trình nước sạch có bước cải thiện cơ bản với tỉ lệ đạt 75% so với 80% nghị quyết đề ra nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, cụ thể là ở các ấp 1, 3, 6. Nghĩa trang nhân dân ở một số ấp đưa vào sử dụng nhưng chưa có qui chế hoạt động. Việc thu hồi đất xây dựng công trình phúc lợi công cộng, vận động hiến đất xây dựng kết cấu hạ tầng vẫn còn chưa đạt sự đồng thuận cao trong nhân dân. Ý thức giữ gìn vệ sinh và bảo vệ môi trường trong nhân còn hạn chế. Tuy nhiên, thành tựu trên lĩnh vực kinh tế là rất cơ bản. Về quan điểm, mục tiêu trong giai đoạn này là phát triển nông nghiệp toàn diện, tiếp tục chuyển đổi cơ cấu nông nghiệp theo hướng đa dạng cây trồng, vật nuôi thích hợp với điều kiện thổ nhưỡng, đất đai ở địa phương để đảm bảo nâng cao hiệu quả kinh tế sản phẩm hàng hóa nông sản, đáp ứng yêu cầu thị trường đã đạt được. Tiểu thủ công nghiệp phát triển ngày càng đa dạng, năng động, giải quyết hiệu quả lao động nhàn rỗi ở địa phương, góp phần tăng thu nhập. Các nguồn lực xã hội được huy động và khai thác có hiệu quả vào việc phát triển kinh tế - xã hội, nhất là xây dựng kết cấu hạ tầng, làm cho bộ mặt nông thôn mới ngày càng khang trang hơn. Dù đây là thời kỳ bị ảnh hưởng của suy giảm kinh tế toàn cầu nhưng các chỉ tiêu nghị quyết đề ra đều đạt. Một bộ phận lớn lao động tại chỗ đã có công ăn việc làm, nhân dân thoát nghèo, hộ khá giàu tăng lên, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng cao.
Trên quan điểm nhận thức “văn hóa là nền tảng tinh thần xã hội”, đồng thời với quản lý chặt chẽ các hoạt động về văn hóa, dịch vụ văn hóa, hạn chế văn hóa độc hại, Đảng bộ lãnh đạo công tác xây dựng đời sống văn hoá hướng về cơ sở, địa bàn dân cư. Đến cuối nhiệm kỳ, xã có 5 ấp được công nhận là ấp văn hóa, hàng năm có 100% hộ dân thực hiện đăng ký gia đình văn hoá, qua bình xét, có 95% được công nhận gia đình văn hóa. Tùy vào tình hình thực tế ở khu dân cư, việc bình xét được tiến hành một cách phù hợp, có 7/7 khu đạt danh hiệu khu dân cư tiên tiến. Bản tin thời sự được duy trì, 7 cụm loa ở các ấp đảm bảo họat động tiếp âm đài truyền thanh huyện và phát thanh xã trong việc tuyên truyền chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước, nhiệm vụ chính trị ở địa phương, kịp thời cổ vũ các nhân tố tích cực. Các cuộc hội thao, thi đấu thể thao, hội thi văn nghệ cấp xã, huyện đều được Đảng bộ quan tâm huy động các nguồn lực để tham gia.
Cụ thể hóa Nghị quyết Trung ương 2 (khóa VIII) và Nghị quyết 08 của Huyện ủy, Đảng bộ đẩy mạnh lãnh đạo xã hội hóa giáo dục, củng cố và nâng cao chất lượng của Hội đồng giáo dục, Hội cha mẹ học sinh, Hội khuyến học, kết hợp chặt chẽ ba môi trường giáo dục (gia đình, nhà trường và xã hội), đầu tư cơ sở vật chất phục vụ dạy và học (1), từng bước chuẩn hóa đội ngũ giáo viên, phát động và triển khai nghiêm túc các cuộc vận động phong trào của ngành giáo dục để nâng cao chất lượng dạy và học. Cuộc vận động “Trường học thân thiện, học sinh tích cực” bước đầu góp phần thiết thực vào việc nâng cao chất lượng dạy và học. Nhờ đó, tỉ lệ học sinh mẫu giáo ra lớp đạt 98%, tỉ lệ trẻ em ra lớp 1 đạt 100%, tỉ lệ học sinh bỏ học mỗi năm dưới 1%. Công tác chống mù chữ và phổ cập giáo dục trung học cơ sở được duy trì và giữ vững.
Tiếp tục củng cố mạng lưới y tế cơ sở theo tinh thần Chỉ thị 06 của Ban bí thư Trung ương và Nghị quyết 22 của Huyện ủy, hoạt động y tế có bước chuyển biến quan trọng. Trạm y tế xã có bác sĩ, tinh thần trách nhiệm và trình độ chuyên môn đội ngũ cán bộ y tế được củng cố và trau dồi, nhờ vậy chất lượng khám và điều trị bệnh được cải thiện. Ngoài đảm bảo thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia luôn đạt chỉ tiêu trên giao (trên 90%), không để xảy ra dịch bệnh, điểm mới trong việc chăm sóc sức khỏe nhân dân trong thời gian này là việc thực hiện bảo hiểm y tế tự nguyện trong dân đạt tỉ lệ khá cao (37% so với 30% của huyện). Bằng nhiều biện pháp như thông qua mạng lưới cộng tác viên kết hợp với Mặt trận và các đoàn thể tuyên truyền, tổ chức các chiến dịch truyền thông lồng ghép chăm sóc sức khỏe sinh sản - kế hoạch hóa gia đình, tỉ lệ tăng dân số của xã giảm xuống còn dưới 1%. Công tác chăm sóc và bảo vệ trẻ em, nhất là trẻ em khuyết tật, trẻ em mồ côi, trẻ em suy dinh dưỡng thường xuyên được quan tâm nên tỉ lệ trẻ em suy dinh dưỡng giảm từ 16, 6% xuống còn 11,5 %. Năm 2008, xã được công nhận đạt chuẩn quốc gia về y tế.
Công tác chính sách tiếp tục được tập trung cho việc giải quyết các trường hợp có công còn tồn đọng theo tinh thần Quyết định 290/TTg, 188/TTg và 142/TTg, gồm 148 hồ sơ, đã xét đề nghị công nhận thêm 01 bà mẹ Việt Nam anh hùng, đưa tổng số bà mẹ Việt Nam anh hùng của xã là 23 mẹ. Thêm 14 hài cốt liệt sĩ được qui tập về nghĩa trang liệt sĩ huyện trong thời gian này. Công tác đền ơn đáp nghĩa được quan tâm với việc xây dựng 26 căn nhà tình nghĩa. Quỹ đền ơn đáp nghĩa, một nội dung thực hiện còn nhiều hạn chế trong thời gian trước đây, nay thu đạt chỉ tiêu huyện giao. Giảm nghèo - giải quyết việc làm được Đảng ủy tập trung lãnh đạo bằng cách tăng cường thực hiện vay vốn từ nguồn vốn ngân hàng chính sách, vốn các tổ tiết kiệm và vốn từ các dự án của đoàn thể về tạo việc làm tại chỗ cho người lao động. Cùng với thu nhập của lao động đi làm ăn xa, những nỗ lực trên của xã đã góp phần cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Xã còn hỗ trợ vốn cho 6 hộ nghèo xây dựng nhà theo tinh thần quyết định 167/TTg của Chính phủ và xây dựng 48 căn nhà tình thương.
Năm 2009, Phước Tuy được chọn là xã đầu tiên thực hiện chủ trương về nguồn ở huyện. Với quyết tâm cao của toàn hệ thống chính trị, lần đầu tiên, nguồn lực xã hội được huy động một cách đồng bộ, hỗ trợ có hiệu quả trên nhiều mặt của kinh tế đời sống ở vùng đất căn cứ cách mạng xưa (1). Đây là sự kiện có ý nghĩa chính trị quan trọng, đem lại niềm phấn khởi lớn lao trong nhân dân trước sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, góp phần thay đổi diện mạo vùng nông thôn mới, tạo động lực phát triển kinh tế xã hội.
Có thể thấy rằng, dù một số mặt còn phải tiếp tục củng cố và nâng lên như truyền thanh, tuyên truyền, chất lượng xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư, công tác phổ cập giáo dục trung học phổ thông, tình trạng sinh con thứ 3... nhưng lĩnh vực văn hóa - xã hội trong thời gian này có bước chuyển biến về chất. Ngoài giáo dục, chăm sóc sức khỏe, chế độ chính sách, vấn đề phúc lợi xã hội và an sinh xã hội như nước sạch, các chương trình giảm nghèo, giải quyết việc làm, nhân đạo xã hội... ngày càng được quan tâm và được thực hiện có hiệu quả hơn, góp phần quan trọng vào nhiệm vụ xây dựng đời sống văn hóa mới, giải quyết lao động, giảm bức xúc và tăng cường đồng thuận xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân. Đến cuối nhiệm kỳ, hộ nghèo ở xã (theo tiêu chí mới năm 2008) giảm từ 12, 56 % xuống 9,6 %. Nhà dân hầu hết đều kiên cố và bán kiên cố với các phương tiện về giao thông, thông tin liên lạc đảm bảo đáp ứng yêu cầu cho sinh hoạt đời sống và sản xuất.
4.3. Giữ vững an ninh - quốc phòng trong tình hình mới, đổi mới và nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng, hiệu quả hoạt động của chính quyền, Mặt trận và đoàn thể.
Xác định quốc phòng - an ninh là hai nhiệm vụ chiến lược của toàn hệ thống chính trị, Đảng ủy xây dựng nghị quyết chuyên đề hàng năm để lãnh đạo thực hiện. Đồng thời với duy trì nghiêm chế độ trực sẵn sàng chiến đấu, nhất là các đợt cao điểm, Đảng ủy tập trung lãnh đạo việc nắm chắc nguồn thanh niên trong độ tuổi nghĩa vụ quân sự đảm bảo hoàn thành chỉ tiêu giao quân hàng năm (100%) và đạt chất lượng. Chú trọng công tác xây dựng lực lượng, bên cạnh đảm bảo quân số theo qui định, tăng cường nòng cốt đảng viên, đoàn viên (1), Đảng bộ tăng cường lãnh đạo việc chấp hành đảm bảo công tác huấn luyện hàng năm đối với lực lượng dân quân cơ động, lãnh đạo chi bộ quân sự theo tinh thần Chỉ thị 235 của Thường vụ Đảng ủy Quân khu (7) về xây dựng chi bộ 4 tốt, đảng viên 5 tốt, thường xuyên làm công tác chính trị tư tưởng, hậu phương quân đội và giáo dục kiến thức quốc phòng (2).
Tiếp tục quán triệt và tổ chức thực hiện Nghị quyết 08-NQ/TW của Bộ Chính trị (khoá VIII) về bảo vệ an ninh quốc gia trong tình hình mới, Nghị quyết 08-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá IX) về chiến lược bảo vệ Tổ quốc và các đề án bảo vệ an ninh quốc gia của Tỉnh ủy gắn với việc triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác an ninh - quốc phòng, Nghị quyết 54-NQ/HU của Huyện ủy về “nâng cao chất lượng xây dựng thế trận an ninh nhân dân trong tình hình mới”, xã bên cạnh củng cố bộ máy công an xã đủ biên chế, đã tổ chức quần chúng xây dựng lực lượng nòng cốt ở địa bàn (3), triển khai mô hình “Tiếng kẻng an ninh trật tự” ở 7 ấp và xây dựng phương án chốt chặn trên các tuyến giao thông khi có yêu cầu, thực hiện mô hình “phòng chống trẻ em vi phạm pháp luật ”, tổ chức “ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc” gắn liền với diễn đàn “công an xã lắng nghe ý kiến nhân dân”. Nhờ vậy, xã có phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc đạt thứ hạng cao trong huyện, tình hình an ninh trật tự và an toàn xã hội trên địa bàn được đảm bảo ổn định.
Về nội chính, bên cạnh tiếp tục tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật bằng các hình thức như họat động câu lạc bộ pháp luật, túi xách, tủ sách pháp luật, trên hệ thống loa đài truyền thanh theo tinh thần triển khai 4 đề án 212/CP của Chính phủ..., nhằm củng cố và nâng cao ý thức chấp hành pháp luật trong nhân dân, thực hiện tốt công tác thi hành án dân sự theo phân cấp, xã chú trọng củng cố và nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ hòa giải để củng cố tình làng nghĩa xóm và đoàn kết cộng đồng trong nội bộ nông thôn (4); duy trì công tác tiếp dân và kịp thời giải quyết khiếu nại để không xảy ra tình trạng đơn thư vượt cấp.
Dù tình hình trật tự và an toàn xã hội có có chiều hướng gia tăng và ngày càng phức tạp (1), chất lượng một bộ phận dân quân, dân phòng chưa đáp ứng yêu cầu tình hình, nhưng nhiệm vụ an ninh - quốc phòng trong thời gian này đã đảm bảo ổn định tình hình chính trị và an ninh trật tự địa bàn để tạo điều kiện cho nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội của hệ thống chính trị.
Xây dựng bộ máy nhà nước ngày càng vững mạnh và hiệu quả, Đảng bộ lãnh đạo Hội đồng nhân dân hoạt động theo hướng ngày càng nâng cao tính đảm bảo theo luật định, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng bằng cách cụ thể hóa nghị quyết của Đảng ủy một cách sát hợp đồng thời với phát huy đúng chức năng của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương và phát huy dân chủ. Nhờ vậy, năng lực đại biểu và vai trò của Hội đồng nhân dân được nâng lên thể hiện qua việc chức năng giám sát của thường trực đối với Ủy ban nhân dân và các ngành được tăng cường, đồng thời qua đó cũng kịp thời giải quyết các khó khăn, vướng mắc của chính quyền trong việc thực hiện nghị quyết. Việc tiếp xúc cử tri trước và sau kỳ họp đi vào nề nếp và quan tâm giải quyết có hiệu quả bức xúc của cử tri.
Đảng bộ lãnh đạo xã tiếp tục kiện toàn bộ máy hành chính nhà nước theo tinh thần Nghị định 121/CP của Chính phủ, đã tăng cường đào tạo bồi dưỡng kiến thức quản lý nhà nước, chuyên môn nghiệp vụ, lý luận chính trị..., củng cố, sắp xếp bố trí công chức đúng chuyên môn nghiệp vụ, kiểm tra, uốn nắn, chấn chỉnh củng cố và nâng cao tinh thần kỷ luật, kỷ cương, tác phong và lề lối làm việc đối với đội ngũ cán bộ. Đồng thời với tổ chức, từng bước chính qui hóa bộ máy, công tác cải cách hành chính cũng được đẩy mạnh với nhiều biện pháp như trang bị phương tiện, thiết bị đáp ứng yêu cầu công việc, từng bước ứng dụng tin học vào một số lĩnh vực, ngành, thực hiện hiệu quả cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” để giảm bớt phiền hà và đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu quan hệ hành chính, dân sự của nhân dân, nhất là các thủ tục có liên quan đến quyền lợi và nghĩa vụ của dân... Công tác bầu cử chức danh chủ chốt ở cơ sở, lấy phiếu tín các chức danh chủ tịch, phó chủ tịch Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân được tiến hành nghiêm túc, đúng luật. Nhờ các nỗ lực trên, năng lực, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước ở địa phương của xã được cải thiện và nâng lên rõ rệt, vai trò tham mưu cũng được cải thiện và phát huy, tín nhiệm trong nhân dân với hệ thống chính trị cũng được nâng lên.
Với quan điểm vận động quần chúng là một trong những nhiệm vụ trọng tâm hàng đầu của toàn hệ thống chính trị, có ảnh hưởng quan trọng đến kết quả thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương, Đảng bộ lãnh đạo Mặt trận và các đòan thể tích cực triển khai thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở nhằm phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân trên mọi mặt của đời sống xã hội và tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền.
Tiếp tục thực hiện Nghị quyết số 05-NQ/TU về “Nâng cao chất lượng tổ chức và hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị xã hội ở xã, phường, thị trấn”, Đảng bộ thường xuyên quán triệt trong nội bộ và nhân dân về ý thức vai trò của công tác vận động quần chúng trong thời kỳ mới, về xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân theo hướng gần dân, tin dân và có trách nhiệm với dân, tuyên truyền, phát động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư gắn với phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc, vận động thực hiện các mô hình giảm nghèo, giải quyết việc làm, làm giàu chính đáng, phòng chống các lọai tệ nạn xã hội... Nhờ đổi mới nội dung và phương thức hoạt động theo hướng sâu sát địa bàn dân cư, từng đối tượng đoàn viên, hội viên, xây dựng và triển khai nhiều mô hình tiết kiệm tương trợ, giúp nhau trong sản xuất, hay, hiệu quả, tiêu biểu như mô hình tiết kiệm của phụ nữ và các hình thức khác, Mặt trận và đoàn thể đã đẩy mạnh công tác phát triển hội viên, tập hợp ngày càng đông đảo nhân dân vào tổ chức xã hội (1) để phát huy dân chủ, đoàn kết tương trợ, giải quyết việc làm - giảm nghèo, xây dựng đời sống văn hóa, tham gia hòa giải trong cộng đồng dân cư, xây dựng các công trình hạ tầng nông thôn, hoạt động về nguồn, huy động có hiệu quả các nguồn lực xã hội. Trong hai năm 2008-2009, xã vận động quỹ xây nhà tình thương, nhà đại đoàn kết theo tinh thần Chỉ thị 15 của Huyện ủy, đã xây dựng 48 căn nhà, xóa hẳn nhà tạm, nhà dột. Đợt về nguồn năm 2009, xã đã huy động các nguồn lực để làm công tác xã hội và xây dựng các công trình hạ tầng và phúc lợi với kinh phí hơn 600 triệu đồng. Vận động quần chúng trong cộng đồng tôn giáo theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX), bên cạnh thường xuyên hướng dẫn các tổ chức tôn giáo hoạt động đúng tôn chỉ và mục đích theo chủ trương, chính sách và pháp luật, nhân các ngày lễ của tôn giáo, xã tổ chức thăm viếng các, chức sắc, chức việc các cơ sở tín ngưỡng để động viên tín đồ phát huy phương châm sống “tốt đời đẹp đạo” và đại đoàn kết dân tộc, đóng góp hiệu quả vào việc xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền và xây dựng cuộc sống văn hóa mới ở địa phương.
Qua hơn 10 năm thực hiện qui chế dân chủ ở cơ sở, quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được phát huy, thể hiện rõ nét qua các kỳ bầu cử Hội đồng nhân dân 3 cấp, bầu cử trưởng ấp, vai trò giám sát qua thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, đã góp phần khơi dậy các nguồn lực xã hội và củng cố sức mạnh khối đại đoàn kết của cộng đồng, đóng góp hiệu quả vào nhiệm vụ xây dựng chính quyền vững mạnh và việc thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Về xây dựng Đảng, chú trọng công tác giáo dục chính trị tư tưởng, xem đây là công tác trọng tâm để tạo sự đồng thuận trong Đảng bộ, đảm bảo thực hiện hoàn thành nhiệm vụ chính trị ở địa phương, Đảng bộ luôn kịp thời tổ chức triển khai, quán triệt, học tập nghị quyết của Đảng các cấp, pháp luật của Nhà nước, thông tin thời sự, quán triệt Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tổ chức, tham gia học tập, bồi dưỡng về lý luận chính trị. Đảng bộ chú trọng đổi mới việc ra nghị quyết, xây dựng kế hoạch, chương trình hành động thực hiện nghị quyết, chỉ thị Đảng cấp trên theo hướng tập trung vào những vấn đề trọng tâm, bức xúc của địa phương, từ đó đề ra nghị quyết phù hợp, sát thực tế, dễ hiểu, dễ làm. Hình thức, phương pháp triển khai được chú trọng từ Đảng bộ đến chi bộ, ra dân, thông qua sinh hoạt chi bộ, hội nghị cán bộ đảng viên, sinh hoạt của Mặt trận và đoàn thể, họp dân ở địa bàn dân cư, sinh hoạt câu lạc bộ của đoàn thể, hoạt động của trạm truyền thanh. Ngoài ra còn có hình thức bản tin thời sự được duy trì và nâng cao nội dung, hoạt động tổ chức thông tin thời sự của hội đồng khoa giáo. Đảng bộ cũng luôn quan tâm nắm bắt dư luận xã hội và những vấn đề nhạy cảm có liên quan đến đời sống xã hội và đời sống chính trị trong cán bộ, đảng viên và nhân dân để kịp thời uốn nắn, định hướng. Công trình lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân xã Phước Tuy giai đọan 1930 - 1975 sau khi in ấn xuất bản vào năm 2007, được triển khai đưa vào phổ biến phục vụ công tác giáo dục truyền thống cho cán bộ, đảng viên và nhân dân bằng các hình thức như sinh họat câu lạc bộ các đoàn thể, thi đố em trong nhà trường cũng là một hình thức giáo dục chính trị tư tưởng đáng chú ý trong thời gian này. Nhờ vậy, nhìn chung, đại bộ phận cán bộ, đảng viên giữ vững lập trường và quan điểm của Đảng, nhất quán trong nhận thức và hành động.
Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” theo tinh thần Chỉ thị 06-CT/TW ngày 7-11-2006 của Bộ Chính trị và chỉ đạo của Ban Thường vụ Huyện ủy ngày 7-3-2007, đã được Đảng bộ triển khai từ năm 2007 bằng tổ chức học tập các chuyên đề với hơn 95% đảng viên và quần chúng tham gia, xây dựng chương trình hành động cụ thể để các bộ, đảng viên làm theo. Cuộc vận động làm cho nhận thức về những nội dung cơ bản và giá trị to lớn của tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh của cán bộ, đảng viên và nhân dân xã được nâng lên, bước đầu đi vào cuộc sống, tạo chuyển biến tích cực và cụ thể trong suy nghĩ và hành động, góp phần thiết thực vào nhiệm vụ hoàn thành nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Qua đó có 7 tập thể và 7 cá nhân của xã đã đạt thành tích tốt được biểu dương trong ngày hội đại đoàn kết toàn dân tộc năm 2009.
Tiếp tục củng cố, kiện toàn tổ chức Đảng để nâng cao vai trò lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị ở địa phương, sau đại hội lần thứ IX nhiệm kỳ 2005-2010, Đảng bộ xã xây dựng qui chế làm việc của Ban thường vụ - Ban chấp hành, trong quá trình thực hiện luôn được chú trọng bổ sung cho phù hợp với qui chế của Huyện ủy và tình hình cụ thể ở địa phương. Cùng với phân công cấp ủy viên phụ trách chi bộ, Đảng ủy quan tâm xây dựng và củng cố các chi bộ trực thuộc theo hướng chi bộ là hạt nhân lãnh đạo chính trị địa bàn dân cư và các ngành. Đến năm 2010, toàn Đảng bộ có 10 chi bộ, trong đó có 7 chi bộ ấp, 3 chi bộ cơ quan, không còn chi bộ ghép. Các đảng viên được phân công phù hợp với năng lực, trình độ và các điều kiện khác để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ được giao. Thực hiện Hướng dẫn số 35 của Ban Tổ chức Tỉnh ủy và Hướng dẫn 01 của Ban Tổ chức Huyện ủy, chất lượng sinh hoạt của ban chấp hành Đảng bộ và chi bộ trực thuộc tiếp tục được cải thiện và nâng cao. Công tác đảng viên được quan tâm nâng cao chất lượng, thực hiện tốt việc phân công, giao nhiệm vụ, rèn luyện đảng viên thông qua sổ tay hàng tháng, quản lý nơi công tác và nơi cư trú theo Quy định 76/TW. Công tác đánh giá phân loại cán bộ, đảng viên và tổ chức cơ sở Đảng hàng năm được thực hiện chặt chẽ, đúng qui trình, kịp thời biểu dương khen thưởng, tạo động lực cho nhiệm vụ xây dựng Đảng. Qua phân tích chất lượng có 10/10 chi bộ hàng năm đạt trong sạch vững mạnh và bình quân có 94% đảng viên đạt hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, Đảng bộ được công nhận trong sạch vững mạnh năm 2009.
Xác định tầm quan trọng của công tác cán bộ trong xây dựng Đảng, Đảng bộ thực hiện đúng qui trình, quy hoạch, sắp xếp gắn với kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng đảm bảo năng lực, trình độ, nhất là đối với cán bộ chủ chốt, các chức danh cần được bồi dưỡng ở các ngành, đoàn thể. Trong nhiệm kỳ, xã đưa 04 đồng chí đi đào tạo đại học, 18 đồng chí đi học bồi dưỡng lý luận chính trị các cấp, 10 đồng chí học trung cấp chuyên môn. Ngoài ra còn cử cán bộ bồi dưỡng, tác nghiệp các chức danh Bí thư Đảng ủy, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và Chủ tịch Mặt trận Tổ quốc, trưởng các đoàn thể và các đợt bồi dưỡng, tập huấn hàng năm khác. Nhờ tập trung lãnh đạo công tác tạo nguồn, nhìn chung, công tác phát triển đảng viên theo tinh thần Hướng dẫn 03/HU của Ban thường vụ Huyện ủy đạt yêu cầu về chất, đã phát triển 20 đảng viên mới, nâng tổng số đảng viên trong toàn Đảng bộ lên 81 đảng viên.
Cùng với nội dung tự phê bình và phê bình trong các kỳ họp chi bộ lệ kỳ, công tác kiểm tra được Đảng bộ tăng cường gắn với chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 6 (2), Nghị quyết 03 của Tỉnh ủy về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên, gắn với kế hoạch kiểm tra thường xuyên theo kế hoạch và đột xuất theo yêu cầu tình hình địa phương, cơ sở, trên quan điểm mạnh dạn, kiên quyết làm trong sạch tổ chức và xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong Đảng (1).
Việc đổi mới nội dung và phương thức lãnh đạo, Đảng bộ xây dựng qui chế và làm việc theo qui chế, lãnh đạo bằng nghị quyết. Nguyên tắc tập trung dân chủ luôn được tuân thủ để đạt sự thống nhất cao trước khi tổ chức thực hiện, nhất là những vấn đề quan trọng như tổ chức cán bộ và các lĩnh vực liên quan đến chủ trương phát triển của địa phương. Việc bố trí cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt luôn dựa trên quan điểm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Việc xây dựng nghị quyết, chương trình hành động, kế hoạch luôn dựa trên quan điểm vận dụng phù hợp với điều kiện thực tế ở địa phương. Trong chỉ đạo có chọn những vấn đề trọng tâm gắn với phân công trách nhiệm cụ thể của cá nhân đồng thời với phát huy dân chủ, bên cạnh kiểm tra vai trò lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn thể.
5 năm (2005 - 2010) tiếp tục đẩy mạnh thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa phương trong điều kiện thuận lợi song cũng gặp không ít khó khăn, Đảng bộ và nhân dân Phước Tuy đã gặt hái được những kết quả đáng phấn khởi, thể hiện qua việc hoàn thành 10/13 chỉ tiêu cơ bản và 19/27 lĩnh vực nghị quyết đề ra. Tăng trưởng kinh tế được giữ vững và kinh tế nông nghiệp chuyển dịch đúng hướng theo hướng chuyển đổi cây trồng vật nuôi phù hợp, nâng qui mô theo hướng trang trại và nâng cao chất lượng hàng hóa nông sản theo hướng hiệu quả kinh tế và đáp ứng yêu cầu thị trường. Thương mại - dịch vụ và tiểu thủ công nghiệp tiếp tục được duy trì là kinh tế phụ quan trọng, giải quyết lao động nhàn rỗi, tăng thu nhập, từng bước phát triển theo hướng nâng dần qui mô đầu tư, đáp ứng yêu cầu giao thương khu vực để giải quyết lao động - việc làm ở địa phương. Kết cấu hạ tầng được cải thiện và nâng lên làm thay đổi rõ rệt bộ mặt nông thôn. Đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân tiếp tục được nâng lên một bước. An sinh xã hội được quan tâm hơn, góp phần củng cố lòng tin trong nhân dân. An ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được giữ vững, quốc phòng được củng cố. Hệ thống chính trị ngày càng được kiện toàn về tổ chức và bộ máy; nội dung, phương thức hoạt động có bước đổi mới; năng lực lãnh đạo, quản lý, điều hành và tổ chức thực hiện của đội ngũ cán bộ, công chức được nâng lên, cho thấy ngày càng đảm bảo hơn khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới. Dân chủ xã hội được phát huy làm nâng cao đồng thuận xã hội.
Đó là kết quả từ sự quan tâm của Đảng cấp trên mà trực tiếp là Huyện ủy đã có nghị quyết phù hợp trong bối cảnh chung những chủ trương của Đảng và chính sách của nhà nước ngày càng thông thoáng, dù đây là thời kỳ xuất hiện những thách thức mới do tình hình suy giảm kinh tế. Cùng với sự đầu tư của cấp trên và nguồn lực ở địa phương được phát huy có hiệu quả cho mục tiêu chung, sự tập trung cao độ của toàn hệ thống chính trị và nỗ lực lớn lao của nhân dân với khát vọng vươn lên làm giàu cho gia đình và xã hội là những yếu tố chủ quan có tính quyết định tạo nên sức mạnh tổng hợp để hoàn thành nhiệm vụ trong giai đoạn này.
Tuy nhiên, do điều kiện vị trí địa lý của xã không thuận lợi cho việc thu hút đầu tư nên lĩnh vực công nghiệp và thương mại dịch vụ chưa có điều kiện phát triển, trong khi nông nghiệp vẫn còn yếu tố bấp bênh bởi tình hình suy giảm kinh tế chung, thiên tai, dịch bệnh diễn biến phức tạp, giá cả, nhất là giá vật tư nông nghiệp tăng đột biến trong khi đầu ra nông sản không ổn định, đã ảnh hưởng đến phát triển sản xuất nông nghiệp và đời sống nhân dân. Mặt khác, do chế độ chính sách còn nhiều bất cập, ít nhiều tác động đến tư tưởng một bộ phận cán bộ. Trong lãnh đạo, điều hành, cụ thể hóa và tổ chức thực hiện nghị quyết, cấp ủy và chính quyền có lúc chưa bám sát qui chế làm việc, phân công trách nhiệm còn chung chung. Một bộ phận cán bộ thiếu linh hoạt sáng tạo, còn thụ động trông chờ, đùn đẩy, né tránh, chưa ngang tầm nhiệm vụ. Một số chi bộ ấp chưa thể hiện vai trò hạt nhân. Công tác qui họach cán bộ còn lúng túng, nhất là cán bộ chủ chốt. Cấp ủy nhiều lúc chưa nắm bắt kịp thời tình hình tư tưởng cán bộ đảng viên. Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” thực hiện chưa thực sự đạt yêu cầu về chất. Tất cả đã làm hạn chế không ít đến hiệu quả thực hiện nghị quyết đề ra.
Thực tiễn kinh nghiệm giai đoạn 2005 - 2010 cho thấy cần phải đổi mới công tác tổ chức quán triệt nghị quyết và việc tổ chức thực hiện phải bằng kế hoạch và những giải pháp cụ thể của Nhà nước. Phải làm tốt công tác chính trị tư tưởng, xem đó là yếu tố tạo sự thống nhất trong nhận thức và hành động để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ chính trị. Để nâng cao sự lãnh đạo tập trung và tạo đột phá, trong từng thời điểm của nhiệm vụ chính trị phải xây dựng nghị quyết chuyên đề.
Trong tổ chức thực hiện nghị quyết phải xây dựng qui chế làm việc và bám vào qui chế làm việc, phân công trách nhiệm rõ ràng, giữ vững các nguyên tắc về xây dựng Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ đồng thời với phát huy dân chủ trong Đảng và toàn xã hội.
Phải làm tốt công tác quản lý cán bộ, kiên quyết xử lý vi phạm, đồng thời với đánh giá, qui họach và đào tạo, bố trí cán bộ phải đúng với trình độ năng lực và sở trường để phát huy tối đa nguồn lực con người.
Trong bối cảnh thuận lợi lẫn khó khăn chung, kết quả đạt được trong nhiệm kỳ 2005 - 2010 của Đảng bộ và nhân dân Phước Tuy thực sự ý nghĩa, nhất là trong bối cảnh tác động tiêu cực của tình hình suy thoái kinh tế toàn cầu. Không những là dấu mốc lịch sử đánh dấu thành tựu 25 năm đổi mới ở địa phương, kết quả trên có ý nghĩa tiền đề, để trên cơ sở qui hoạch phát triển chung về kinh tế - xã hội của huyện Cần Đước và của tỉnh, Đảng bộ và nhân dân Phước Tuy sẽ phát huy thế mạnh nội tại đồng thời từng bước khắc phục hạn chế khó khăn, yếu kém, tiếp tục tiến công vào thời kỳ mới trong mục tiêu đạt đến sự phát triển toàn diện và vững chắc trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
4.4. Đại hội Đảng bộ xã lần thứ X và hướng đi cho tương lai
Đảng bộ và nhân dân xã Phước Tuy cùng cả nước bước vào thập kỷ thứ hai của thiên niên kỷ mới trong bối cảnh những thành tựu của quá trình đổi mới trong giai đoạn 2005 - 2010 tiếp tục tạo ra cho đất nước thế và lực mới; chính trị xã hội ổn định; khối đại đoàn kết toàn dân tộc được mở rộng; an ninh quốc phòng được đảm bảo là môi trường, điều kiện thuận lợi cho sự phát triển. Kinh tế thế giới có dấu hiệu hồi phục, kinh tế đất nước và của tỉnh ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế thế giới và khu vực tạo ra nhiều thuận lợi mới. Nhiều định hướng lớn của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn tới tạo điều kiện thuận lợi để các địa phương chủ động đề ra nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo an ninh quốc phòng. Nội bộ đoàn kết thống nhất, xã hội có sự đồng thuận cao, kinh nghiệm lãnh đạo, quản lý, điều hành trong 5 năm qua; nguồn nhân lực được quan tâm đầu tư; đội ngũ cán bộ có bước trưởng thành về phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ năng lực là những nguồn lực quan trọng, có tính quyết định để Đảng bộ phát huy nội lực, hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra.
Tuy nhiên, tình hình thế giới và trong nước còn tiềm ẩn những yếu tố bất ổn, khó lường. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu. Sức ép của cạnh tranh trong thu hút đầu tư và thị trường tiêu thụ hàng hóa đang là những thách thức lớn. Môi trường tự nhiên còn ẩn chứa nhiều vấn đề phức tạp, dịch bệnh vẫn là mối đe dọa thường xuyên đối với hoạt động sản xuất và chăn nuôi, ảnh hưởng của biến đổi khí hậu toàn cầu, đặc biệt là hiện tượng nước biển dâng, mặn xâm nhập sâu sẽ ảnh hưởng đến sản xuất và đời sống nhân dân. Những vấn đề xã hội bức xúc phát sinh trong quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động, đẩy mạnh phát triển công nghiệp đang đặt ra những khó khăn mới. Sự chống phá của các thế lực thù địch trong quá trình nước ta hội nhập quốc tế diễn ra ngày càng quyết liệt trên tất cả các lĩnh vực, nhất là lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” để đẩy mạnh các hoạt động “diễn biến hòa bình” bằng những phương thức thủ đoạn tinh vi và nguy hiểm hơn.
Trong bối cảnh ấy, Phước Tuy có những thuận lợi cơ bản. Cùng với việc chủ trương, nghị quyết của Đảng, hệ thống luật pháp, cơ chế, chính sách của Nhà nước ngày càng thông thoáng và hoàn thiện, các nghị quyết chuyên đề của Huyện ủy như Nghị quyết 47-NQ/HU, Nghị quyết 54-NQ/HU, Nghị quyết 64-NQ/HU đã và đang đi vào cuộc sống, xu thế phát triển theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn và xây dựng nông thôn mới đang ngày càng hiện thực hóa ở địa phương. Là xã nằm trong huyện thuộc vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, và nhất là Cần Đước được tỉnh chọn xây dựng huyện điểm điển hình về văn hóa, Phước Tuy sẽ có cơ hội được quan tâm đầu tư thúc đẩy phát triển trên nhiều lĩnh vực, nhất là về kinh tế. Cùng với kinh tế nông nghiệp, các hoạt động kinh tế khác có chiều hướng phát triển đa dạng hơn. Kết cấu hạ tầng nông thôn do trên đầu tư và theo phương châm “Nhà nước nhân dân cùng làm” đã và đang phát huy hiệu quả vào việc phục vụ yêu cầu phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Đội ngũ cán bộ, đảng viên đang được chuẩn hóa, trình độ, năng lực lãnh đạo và điều hành ngày càng được nâng lên và truyền thống đoàn kết, thống nhất khắc phục khó khăn sẽ là nền tảng quan trọng cho Đảng bộ và nhân dân xã vươn lên hoàn thành nhiệm vụ.
Tuy nhiên, kinh tế của xã vẫn còn thuần nông và còn thấp so mặt bằng chung về kinh tế trong huyện, trong khi chưa có điều kiện để khai thác hết tiềm năng và nguồn lực đất đai và con người ở địa phương. Tác động của mặt trái cơ chế thị trường, phân hóa giàu nghèo, thời tiết diễn biến phức tạp, giá cả vật tư và nông sản biến động sẽ tiếp tục ảnh hưởng tiêu cực đến sản xuất và đời sống nhân dân. Bên cạnh những yếu tố khách quan ấy, năng lực, trình độ một bộ phận cán bộ chưa đáp ứng yêu cầu tình hình mới, lao động không có tay nghề còn nhiều, đời sống môt bộ phận nhân dân còn khó khăn..., sẽ là những cản ngại cho quá trình phát triển của địa phương.
Trong bối cảnh ấy, nhằm đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội IX và đề ra nhiệm vụ cho địa phương trong giai đoạn tiếp theo, Đại hội Đảng bộ xã Phước Tuy lần thứ X được tiến hành từ ngày 14 đến ngày 15 tháng 6 năm 2010. Đại hội trên cơ sở nhận định tình hình thuận lợi và khó khăn, tiềm năng, thế mạnh và hạn chế của địa phương trong 5 năm tới, đã xác định mục tiêu tổng quát đến năm 2015 là: “Tiếp tục quán triệt Nghị quyết số 26 của Trung ương lần thứ 7 khóa X và Nghị quyết số 47-NQ/HU của Huyện ủy về nâng cao hiệu quả kinh tế nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới để cải thiện mức sống nhân dân trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, chuyển đổi vật nuôi cây trồng phù hợp với điều kiện ở địa phương theo cơ chế thị trường, mang lại hiệu quả kinh tế cao, đẩy mạnh công tác dạy nghề cho nông dân, vận động nhân dân tranh thủ các nguồn vốn đầu tư để phát triển kết cấu hạ tầng ở địa phương, đẩy mạnh công tác giải quyết việc làm - giảm nghèo - bảo vệ môi trường. Tiếp tục phát huy dân chủ ở cơ sở, tăng cường thực thi pháp luật, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý Nhà nước của chính quyền, họat động của Mặt trận và đoàn thể. Đẩy mạnh cải cách hành chính, giữ vững an ninh chính trị-trật tự an toàn xã hội, phòng chống các lọai tội phạm, tệ nạn xã hội, xây dựng hệ thống chính trị đảm bảo việc thực hiện nhiệm vụ chính trị trong tình hình mới. Xây dựng Đảng bộ trong sạch vững mạnh” (1).
Đại hội cũng đưa ra các chỉ tiêu cơ bản đến năm 2015 là:
- Tổng sản lượng lúa: 6.300 tấn.
- Hộ sử dụng nước sạch: 80%.
- Tỉ lệ tăng dân số dưới 1%.
- Tỉ lệ hộ nghèo dưới 6%.
- Đăng ký xây dựng xã văn hóa.
- Ấp đạt tiểu chuẩn ấp văn hóa: 7/7.
- Trường tiểu học và trường mẫu giáo đạt chuẩn.
- Trẻ em suy dinh dưỡng: 10%.
- Thu ngân sách đạt 100%.
- Tuyển quân đạt 100%.
- Phát triển đảng viên mới: 28 đảng viên.
- Xây dựng ban an ninh trật tự, tổ an ninh nhân dân, đội dân phòng ấp đảm bảo chất lượng hoạt động.
- Đảng bộ xã đạt trong sạch vững mạnh hàng năm.
- 100% chi bộ đạt trong sạch vững mạnh hàng năm.
- Chất lượng đảng viên hàng năm đạt loại A: 95%, không có loại C.
- 100% tổ chức Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể xã đạt vững mạnh hàng năm.
- 100% ban Mặt trận, đoàn thể ấp đạt vững mạnh hàng năm.
- Trên 90% cán bộ trưởng, phó Mặt trận - đòan thể xã là đảng viên.
- 40% trưởng Mặt trận - đoàn thể ấp là đảng viên.
- 70% trưởng ấp là đảng viên.
- 100% cán bộ chủ chốt xã đạt chuẩn về lý luận chính trị và chuyên môn.
- 90% cán bộ các ngành đoàn thể xã đạt chuẩn về trình độ: học vấn, chính trị và chuyên môn.
Đại hội xác định những nhiệm vụ cụ thể và chỉ ra các giải pháp trên từng lĩnh vực để đảm bảo thực hiện thắng lợi các chỉ tiêu đã đề ra.
Về kinh tế, xã xác định cùng với xu thế phát triển chung và điều kiện thực tế ở địa phương, công nghiệp và đô thị có khả năng hình thành trong cơ cấu kinh tế địa phương nhưng nông nghiệp vẫn là chủ yếu, bên cạnh phát triển thương mại nhỏ lẻ và các ngành nghề gia công. Trên quan điểm ấy, cần tập trung phát triển sản xuất nông nghiệp toàn diện, đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu nông nghiệp theo hướng đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi phù hợp với thổ nhưỡng và điều kiện tại chỗ và đạt năng suất, chất lượng sản phẩm đáp ứng yêu cầu thị trường. Để làm được điều đó, cần tiến hành đồng bộ một số công tác sau: tăng cường khuyến nông khuyến ngư, chuyển giao khoa học kỹ thuật cho nông dân, đẩy mạnh công tác dạy nghề, phối hợp với các cơ quan chức năng của huyện đưa các loại cây con mới vào sản xuất thử nghiệm, nạo vét các con rạch lớn trong hệ thống đập Bến Trễ để tăng cường năng lực tưới tiêu, tổ chức thực hiện cánh đồng điểm giá trị tăng thêm 25 triệu đồng/ha để nhân rộng trên toàn xã, xây dựng kế hoạch cải tạo “vùng đất chết” ở khu vực cầu Bà Mười Đạo và trồng những loại cây thích hợp, xây dựng các tổ kinh tế hợp tác tiến tới hình thành một hợp tác xã nông nghiệp, chuyển diện tích nuôi tôm khu vực ngoài đê bao sang nuôi các loài thủy sản khác phù hợp hơn để nâng cao hiệu quả kinh tế, tăng cường công tác thú y phòng chống các loại dịch bệnh trên đàn gia súc, gia cầm, chủ động trong công tác phòng chống lũ lụt, giảm nhẹ thiên tai, nhất là chú ý khâu tuyên truyền chuẩn bị các biện pháp ứng phó trong nhân dân. Về xây dựng kết cấu hạ tầng, khai thác các nguồn lực, kết hợp đầu tư của trên và đột phá vận động nhân dân hiến đất để mở rộng đường liên ấp, đảm bảo xe 4 bánh lưu thông phục vụ yêu cầu sản xuất, cải tạo nâng cấp đường dây điện hạ thế để đảm bảo điện sinh hoạt ở các ấp vùng sâu, thu hồi đất xây dựng trụ sở mới của Ủy ban nhân dân xã, làm tốt công tác giải phóng mặt bằng khu công nghiệp ven sông Vàm Cỏ, khu dân cư Phước Lộc, ổn định cuộc sống và việc làm cho dân trong vùng giải tỏa. Để tăng cường bảo vệ môi trường, cần xử lý tốt chất thải trong chăn nuôi, vận động nhân dân không đưa rác thải xuống sông rạch, đưa nước sạch về các ấp vùng xa như 1, 3, 6 để nâng cao tỉ lệ sử dụng nước sạch. Để khuyến khích các thành phần kinh tế, tiếp tục phát triển các ngành nghề truyền thống như mộc, se nhang... bên cạnh phát triển kinh doanh dịch vụ, nhất là cung ứng vật tư nông nghiệp và hàng hóa phục vụ đời sống.
Về văn hóa - xã hội, để triển khai thực hiện chương trình hành động thực hiện nghị quyết của Huyện ủy về xây dựng huyện điểm điển hình về văn hóa, phát động xây dựng xã văn hóa, đẩy mạnh và nâng cao chất lượng phong trào toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa, củng cố chất lượng hoạt động của ban chỉ đạo xã, tập trung nâng cao chất lượng hoạt động của ban chỉ đạo ấp, giữ vững và nâng cao chất lượng ấp văn hóa hiện có, xây dựng các ấp còn lại, phấn đấu hàng năm có 100% gia đình đăng ký gia đình văn hóa và có trên 95% hộ đạt gia đình văn hóa, củng cố hoạt động các câu lạc bộ gia đình. Tiếp tục đẩy mạnh thông tin tuyên truyền, chú trọng nêu những tấm gương điển hình tiên tiến, phát triển phong trào văn nghệ thể dục thể thao theo hướng xã hội hóa, củng cố các câu lạc bộ quần chúng như câu lạc bộ dưỡng sinh, câu lạc bộ hoa kiểng, câu lạc bộ văn nghệ..., quản lý lễ hội dân gian. Để nâng cao chất lượng dạy và học, tiếp tục phát huy mạnh mẽ xã hội hóa giáo dục, quan tâm xây dựng phong trào khuyến học, khuyến tài, gia đình hiếu học, xã hội học tập, đầu tư xây dựng cơ sở vật chất cho trường tiểu học để đạt chuẩn vào cuối năm 2010 và trường mẫu giáo vào năm 2011, duy trì chống mù chữ và phổ cập tiến tới phổ cập giáo dục trung học phổ thông, củng cố chất lượng hoạt động trung tâm học tập cộng đồng để góp phần đào tạo, phổ cập nghề cho lao động địa phương. Để thực hiện tốt việc chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, chú trọng công tác tuyên truyền, phòng chống dịch bệnh, thực hiện tốt các chương trình y tế quốc gia, xây dựng trạm y tế mới, xây dựng mô hình “ấp không có người sinh con thứ 3” để duy trì tỉ lệ tăng dân số ở mức 1%, đi đôi với quan tâm bảo vệ chăm sóc giáo dục trẻ em, nhất là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, mồ côi, khuyết tật, suy dinh dưỡng và chống bạo lực gia đình. Để thực hiện tốt công tác chính sách, cần đẩy mạnh cuộc vận động đền ơn đáp nghĩa và xây dựng nhà tình nghĩa. Hỗ trợ vốn tín chấp, giới thiệu việc làm, đào tạo nghề và hướng dẫn các mô hình phát triển kinh tế, xây dựng nhà tình thương, nhà đại đoàn kết và quỹ vì người nghèo, đào tạo phổ cập nghề cho người lao động để giải quyết việc làm - giảm nghèo theo Nghị quyết 64 của Huyện ủy.
Về quốc phòng - an ninh - nội chính, để xây dựng vững chắc thế trận an ninh nhân dân kết hợp với thế trận quốc phòng toàn dân, cần tiếp tục thực hiện Nghị quyết 54 của Huyện ủy về xây dựng vững chắc thế trận an ninh nhân dân trong tình hình mới, phát huy mô hình “tiếng kẻng an ninh trật tự”, “ánh sáng đèn đường”, tổ chức diễn đàn “ công an xã lắng nghe ý kiến nhân dân” gắn với tổ chức ngày hội toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc ở khu dân cư, thực hiện tốt Nghị quyết 09-NQ/CP về chương trình quốc gia phòng chống tội phạm trong tình hình mới, xây dựng lực lượng đủ mạnh, cả về quân số, năng lực nghiệp vụ và phẩm chất chính trị. Tăng cường công tác lãnh đạo Đảng, nhất là về chính trị tư tưởng trong lực lượng dân quân tự vệ và dự bị động viên, nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ quân sự theo tinh thần Chỉ thị 235 của Thường vụ Đảng ủy Quân khu 7, xây dựng và huấn luyện dân quân đạt chỉ tiêu, chất lượng, nhất là lực lượng cơ động, tổ chức tốt công tác tuyển quân, quan tâm chú trọng phát triển Đảng trong thanh niên nhập ngũ, tăng cường giáo dục quốc phòng trong hệ thống chính trị và trong nhân dân, thực hiện tốt chính sách hậu phương quân đội. Đẩy mạnh tuyên truyền phổ biến pháp luật thông qua câu lạc bộ pháp luật, tủ sách pháp luật, túi xách pháp luật và các câu lạc bộ của đoàn thể xã làm nòng cốt, thực hiện tốt thi hành án dân sự theo phân cấp, đẩy mạnh công tác hòa giải ở cơ sở, để không xảy ra điểm nóng, lãnh đạo thực hiện tốt Nghị quyết 09/BBT Trung ương về giải quyết khiếu nại tố cáo công dân.
Đại hội đề ra các biện pháp về xây dựng hệ thống chính trị. Để tăng cường hiệu quả hoạt động của bộ máy Nhà nước, cần nâng cao vai trò của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, Hội đồng nhân dân phải đẩy mạnh công tác giám sát theo hướng có trọng tâm, trọng điểm, nâng cao chất lượng các kỳ họp, chất vấn tại kỳ họp, thực hiện chặt chẽ công tác tiếp xúc cử tri, tiếp dân nơi đại biểu ứng cử, tăng cường hơn nữa chức năng giám sát, xây dựng và thực hiện tốt qui chế phối hợp giữ thường trực Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân và Mặt trận Tổ quốc, xây dựng nghị quyết phù hợp với nghị quyết của trên và tình hình thực tiễn ở địa phương. Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của Ủy ban nhân dân, cần tiếp tục kiện toàn bộ máy nhà nước theo hướng bảo đảm về cơ chế và có chất lượng, tăng cường cải cách hành chính, nhất là về cải cách thủ tục hành chính theo cơ chế một cửa, phát huy nguyên tắc tập trung dân chủ, tập trung công tác dân vận, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong việc tham gia xây dựng chính quyền, nêu cao tinh thần trách nhiệm trước dân, kiên quyết đấu tranh tệ quan liêu hách dịch, xa rời quần chúng, quan tâm nâng cao trình độ công chức để làm tốt công tác tham mưu và triển khai thực hiện nghị quyết của Đảng bộ các cấp và của Hội đồng nhân dân.
Về công tác vận động quần chúng, tiếp tục xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) và đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo tinh thần Nghị quyết 05 của Tỉnh ủy về “nâng cao chất lượng đoàn viên, hội viên”, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể bên cạnh kiện toàn bộ máy, cần tăng cường công tác dân vận để củng cố mối quan hệ giữa Đảng với dân, coi trọng chất lượng phát triển đoàn viên, hội viên, hoạt động của các chi tổ hội, duy trì và xây dựng các mô hình mới trong tổ chức hội, đoàn, tạo điều kiện để nhân dân tham gia quản lý xã hội, xây dựng chính quyền, xây dựng Đảng, tập trung đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ làm công tác quần chúng ngang tầm nhiệm vụ mới, thực hiện tốt qui chế dân chủ ở cơ sở theo Pháp lệnh 34 của Ủy ban thường vụ quốc hội để phát huy quyền làm chủ trực tiếp của nhân dân, nhất là đối với những nhiệm vụ cần đến sự huy động sức dân, có liên quan trực tiếp đến nghĩa vụ và quyền lợi của dân, vận động chức sắc tôn giáo và đồng bào có đạo hưởng ứng và đóng góp có hiệu quả vào nhiệm vụ chính trị ở địa phương.
Để thực hiện có hiệu quả cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng nhằm xây dựng hệ thống chính trị thật sự trong sạch, vững mạnh, Đảng bộ xác định chính trị tư tưởng vẫn luôn là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu để tạo tính thống nhất trong ý chí và hành động của toàn Đảng bộ. Trên quan điểm ấy, cần thường xuyên cải tiến phương pháp tuyên truyền, nhất là tuyên truyền phổ biến ra dân, chú trọng đến bản tin hàng tháng của Đảng bộ xã, đồng thời với nắm bắt dư luận xã hội để kịp thời uốn nắn, xử lý. Để cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” đạt hiệu quả thiết thực, góp phần vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở địa phương, cần tuyên truyền sâu rộng hơn nữa trong cán bộ, đảng viên và nhân dân, xây dựng kế hoạch từng cá nhân gắn với những việc làm và hành động cụ thể trên lĩnh vực của mình đồng thời nhân rộng điển hình tiên tiến. Để thực hiện có hiệu quả Nghị quyết số 03/NQ-TU của Tỉnh ủy về đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đảng viên, cần chú trọng vai trò hạt nhân của chi bộ ấp đối với nhiệm vụ chính trị và phong trào ở xóm, ấp, địa bàn dân cư. Thường xuyên bổ sung hoàn thiện qui chế và bám vào qui chế trong quá trình lãnh đạo. Giữ vững các nguyên tắc Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách đồng thời với phát huy dân chủ. Tăng cường công tác tự phê bình và phê bình trên tinh thần giữ gìn đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ. Thực hiện sổ tay rèn luyện đảng viên, quản lý phân công nhiệm vụ phù hợp, đánh giá, phân tích chất lượng tổ chức cơ sở Đảng và đảng viên đảm bảo thực chất và đúng qui trình. Trong công tác cán bộ, bên cạnh kiện toàn bộ máy từ xã đến ấp đảm bảo chất lượng, việc qui hoạch đào tạo, bồi dưỡng lựa chọn và sử dụng cán bộ, nhất là cán bộ chủ chốt phải đảm bảo dựa vào tiêu chuẩn, quy trình theo hướng dẫn quy định, đào tạo cán bộ theo kế hoạch nhằm nâng cao trình độ chuyên môn và chính trị, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, chú ý cán bộ trẻ, cán bộ nữ, đảm bảo các yếu tố truyền thống gia đình và trình độ chính trị, chuyên môn. Thực hiện đúng qui trình tạo nguồn phát triển đảng viên cần chú trọng phát hiện, bồi dưỡng ở khu vực địa bàn dân cư. Thực hiện nghiêm Qui định 76/TW đối với đảng viên cư trú ở địa phương công tác ngoài địa phương. Nâng cao hiệu quả lãnh đạo, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng bộ đối với hệ thống chính trị và toàn xã hội, việc đổi mới phương thức lãnh đạo phải được thể hiện cụ thể bằng việc hoàn thiện quy chế, thực hiện mở rộng công khai dân chủ đi đôi với giữ kỷ cương, kỷ luật, ra nghị quyết và tổ chức triển khai nghị quyết phải kịp thời, sâu sát, phù hợp với điều kiện thực tiễn, dễ hiểu, dễ làm, bên cạnh phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của cán bộ, đảng viên trên mọi lĩnh vực và đời sống xã hội. Tăng cường vai trò kiểm tra giám sát của Ban thường vụ, ủy viên Ban chấp hành, Ủy ban kiểm tra, cán bộ chuyên môn văn phòng Đảng ủy, tập trung vào nhiệm vụ phòng ngừa, ngăn chặn đảng viên có dấu hiệu vi phạm, đồng thời xử lý nghiêm để giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ xã khóa X, nhiệm kỳ 2010 - 2015 gồm 9 đồng chí, và tại phiên họp đầu tiên, đã bầu ra Ban Thường vụ gồm 3 ủy viên. Đồng chí Phan Văn Tính được tín nhiệm giữ chức Bí thư Đảng ủy, đồng chí Phạm Văn Xum và đồng chí Nguyễn Thế Hùng được bầu giữ chức Phó bí thư Đảng ủy. Đại hội cũng bầu Đoàn đại biểu đại diện Đảng bộ xã dự Đại hội Đảng bộ huyện lần thứ X gồm 6 đồng chí chính thức và 1 đồng chí dự khuyết.
Đại hội Đảng bộ xã Phước Tuy lần thứ X thành công tốt đẹp, đã mở ra hướng phát triển mới để toàn Đảng bộ và nhân dân địa phương kế thừa thành tựu của hơn ba thập kỷ xây dựng và phát triển, tiếp tục nêu cao ý chí tự lực, tự cường, nắm chắc thời cơ, đẩy lùi nguy cơ, vượt qua khó khăn thử thách, quyết tâm đưa xã nhà vào con đường phát triển bền vững, trước mắt xây dựng thành công xã văn hóa vào cuối năm 2013, góp phần xây dựng huyện Cần Đước trở thành huyện điểm điển hình về văn hóa đầu tiên của tỉnh, tiến tới xây dựng thành công xã nông thôn mới vào năm 2020, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở địa phương.
*
* *
KẾT LUẬN
Vùng đất Phước Tuy giàu truyền thống lịch sử, văn hóa, yêu nước và đấu tranh cách mạng.
Từ khi Đảng ra đời gánh vác sự nghiệp cách mạng của dân tộc, truyền thống ấy của các thế hệ cha ông trong suốt hàng trăm năm đi khai mở đất phương Nam càng được phát huy cao độ, đã ghi những dấu son vào lịch sử địa phương qua từng thời kỳ, từng giai đoạn, từng chặng đường với những nhiệm vụ lịch sử khác nhau. Đặc biệt, là từ khi kết thúc thắng lợi của nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ, mà ngày 30-4-1975 là cái mốc lịch sử đánh dấu thắng lợi của 30 năm Nam Bộ thành đồng đi trước về sau, trong đó có phần đóng góp của Đảng bộ và nhân dân xã Phước Tuy, đã mở ra cho địa phương thời kỳ cách mạng mới: thời kỳ xây dựng lại quê hương sau chiến tranh trong nhiệm vụ cùng cả nước tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội. Phát huy truyền thống đấu tranh cách mạng kiên cường trong hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, Đảng bộ và nhân dân xã Phước Tuy với khí thế tiến công cách mạng và ý chí vượt qua khó khăn và thử thách trong giai đoạn mới, nỗ lực vươn lên xây dựng lại quê hương, đã tiếp tục ghi thêm vào trang sử của mình những thành tích mới trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thành tựu mà thế hệ ngày hôm nay đang kế thừa và tiếp nối ấy là kết quả của mồ hôi và trí tuệ của nhiều thế hệ cán bộ và nhân dân, là di sản cách mạng quí báu mà thế hệ hôm nay có trách nhiệm nhìn lại, đúc kết kinh nghiệm, kế thừa và tiếp tục phát huy cho chặng đường tiếp sau ở địa phương.
Bước vào nhiệm vụ mới sau chiến tranh, Đảng bộ và nhân dân Phước Tuy phải đối mặt với nhiều khó khăn, thử thách bởi kinh tế ở địa phương vừa ra khỏi cuộc chiến tranh với xuất phát thấp, nghèo nàn và nhiều vấn đề phức tạp về chính trị, xã hội do hậu quả chiến tranh, trong khi chính quyền cách mạng vừa mới hình thành với những cán bộ, đảng viên dù được tôi luyện và trưởng thành về lập trường và ý chí cách mạng nhưng rất bở ngỡ và chưa hề có kinh nghiệm quản lý xã hội thời bình. Dưới ánh sáng của các Nghị quyết Đảng, mà trực tiếp là nghị quyết của Đảng bộ huyện Cần Đước, trong không khí niềm vui chung lớn của ngày hòa bình thống nhất đất nước, niềm tin tưởng lớn lao vào sự lãnh đạo của Đảng và tinh thần hăng hái với quyết tâm xây dựng lại quê hương sau bao năm chiến tranh, Đảng bộ và nhân dân Phước Tuy đã nỗ lực khắc phục hậu quả chiến tranh, tập trung sản xuất nông nghiệp, khôi phục kinh tế, ổn định đời sống nhân dân, xây dựng bộ máy chuyên chính vô sản, hai năm đầu sau ngày giải phóng 1975 - 1977, đã từng bước làm bộc lộ tình hình mới, đặc điểm mới, nhu cầu mới và nhân tố mới của xã hội thời bình.
Mười năm tiếp theo sau đó cùng toàn huyện thực hiện các nhiệm vụ trọng tâm là đẩy mạnh khai hoang phục hóa, khôi phục sản xuất, cải tạo nông nghiệp và công thương nghiệp, từng bước xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, đồng thời với tham gia chiến đấu bảo vệ biên giới Tây Nam Tổ quốc, làm nghĩa vụ quốc tế giúp nước bạn Campuchia trong bối cảnh phức tạp của tình hình trong thời gian này, Đảng bộ Phước Tuy ra sức khắc phục khó khăn, bức bối của tình hình và cơ chế chung, lãnh đạo nhân dân địa phương vượt qua nhiều hạn chế, ràng buộc của cơ chế quan liêu bao cấp, đã tìm tòi, triển khai và phát huy những nhân tố tích cực, dù gặp không ít trở ngại, khó khăn, thậm chí phát sinh tiêu cực, đã củng cố quốc phòng - an ninh chính trị, trật tự an tòan xã hội trên địa bàn, xây dựng bộ máy chuyên chính vô sản vững mạnh, từng bước điều chỉnh các mục tiêu phát triển kinh tế xã hội, ổn định và cải thiện đời sống vật chất và tinh thần nhân dân, hòan thành nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn này.
Bước vào thời kỳ đổi mới từ năm 1986, trong bối cảnh nhiều khó khăn, phức tạp của tình hình chính trị - kinh tế thế giới và trong nước và những hệ lụy trên các lĩnh vực của kinh tế, đời sống, nhất là về đất đai ở địa phương, cơ sở do chưa kịp tháo gỡ về cơ chế, chính sách, Đảng bộ xã Phước Tuy đã bám chắc chủ trương, nghị quyết và sự chỉ đạo của Đảng bộ huyện trong việc từng bước đổi mới cơ chế quản lý và điều chỉnh mục tiêu kinh tế - xã hội, nhất là về cải tạo nông nghiệp và phân phối lưu thông, đã đưa địa phương từng bước hòa nhập vào công cuộc đổi mới, chuyển dần kinh tế theo cơ chế thị trường, định hướng xã hội chủ nghĩa, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần nhân dân.
Cùng với cả huyện bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn trong những năm đầu thế kỷ XXI, Phước Tuy có bước chuyển mạnh mẽ với cơ cấu kinh tế nông nghiệp chuyển dịch theo hướng nâng cao hiệu quả và giá trị hàng hóa nông sản, đáp ứng yêu cầu thị trường, bên cạnh đẩy mạnh phát triển tiểu thủ công truyền thống, dịch vụ nhỏ, mở ra hướng phát triển năng động và cải thiện nâng cao thu nhập cho nhân dân.
35 năm (1975 - 2010) xây dựng và phát triển, Phước Tuy đã có những chuyển biến lớn lao. Từ một địa phương có kinh tế thuần nông với xuất phát thấp, yếu về nguồn lực đầu tư và năng lực sản xuất, nay Phước Tuy trở thành nơi có kinh tế nông nghiệp với bước đi khá vững chắc, dù vẫn còn phải đối mặt với nhiều khó khăn về thời tiết, dịch bệnh, thị trường tiêu thụ, giá cả nông sản, diện tích sản xuất thu hẹp..., nhưng cơ cấu cây trồng vật nuôi được chuyển đổi mạnh mẽ dựa trên điều kiện và thế mạnh của từng vùng đất, ứng dụng khoa học kỹ thuật ngày càng nhiều và hiệu quả đã từng bước đáp ứng yêu cầu thị trường, khẳng định vai trò quan trọng trong cơ cấu kinh tế địa phương, từng bước đáp ứng yêu cầu xây dựng nông thôn mới. Mặt khác, là địa phương của huyện nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam của Tỉnh, Phước Tuy hứa hẹn có nhiều cơ hội được quan tâm đầu tư để phát triển nông nghiệp toàn diện gắn với tiểu thủ công, phát huy thế mạnh địa phương, mở ra những điều kiện mới về giải quyết việc làm - lao động và cải thiện, nâng cao thu nhập cho nhân dân.
Từ một xã có thế mạnh về lịch sử truyền thống là căn cứ kháng chiến với phần đông người dân là nông dân lao động nghèo với điều kiện vật chất tinh thần thiếu thốn..., nay Phước Tuy trở thành địa bàn có thế mạnh về phát triển kinh tế nông nghiệp ở địa phương trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bộ mặt nông thôn đang thay đổi từng ngày. Ước mơ xưa của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ và đồng bào trong những ngày chịu đựng gian khổ trong chiến tranh nay không những đã thành hiện thực mà hòa nhịp vào sự phát triển chung của huyện nhà, của tỉnh và của cả nước, đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ngày càng được cải thiện và nâng lên trong một xã hội đang ngày ngày đồng thuận, hướng đến văn minh hiện đại.
*
Nhìn lại chặng đường đã qua, Đảng bộ và nhân dân Phước Tuy đạt được thành tựu to lớn.
Về kinh tế, thay cho cảnh điêu tàn sau ngày giải phóng bởi hậu quả chiến tranh với kinh tế thuần nông, đất đai nhiễm mặn, nhiễm phèn, vừa thiếu các công trình thuỷ lợi nội đồng, vừa yếu về nguồn lực đầu tư nên diện tích canh tác thu hẹp, cây lương thực và hoa màu đều cho năng suất, chất lượng thấp, kết cấu hạ tầng nông thôn yếu kém, đời sống nhân dân khó khăn, thiếu đói…, bằng nỗ lực lớn lao với quyết tâm cải tạo, khai thác tiềm năng đất đai, từ sự đầu tư của trên, các công trình thủy lợi được hình thành trong từng thời kỳ lịch sử khác nhau mà tiêu biểu là Đập Bến Trễ (1985), Xóm Bồ (1998), Kênh 30-4, Kênh N8, đê bao ven sông Vàm Cỏ và sông Vàm Cỏ Đông và các công trình thủy lợi nội đồng khác... đã làm thay đổi căn bản vùng đất vốn không được thiên nhiên ưu đãi này. Nhờ đó, nay xã đã có kinh tế nông nghiệp phát triển theo hướng toàn diện, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiệu quả, nhất là kinh tế nông nghiệp, có kết cấu hạ tầng nông thôn ngày càng hoàn thiện với hệ thống thủy lợi, điện, đường, trường, trạm, ngói hóa, lầu hóa trụ sở làm việc và nhà dân, nước sạch, thông tin liên lạc..., thúc đẩy các hoạt động kinh tế vốn thuần nông, nay trở nên năng động và hiệu quả, làm tăng thu nhập quốc dân và tiềm lực kinh tế địa phương.
Về văn hóa - xã hội, từ chỗ những ngày đầu bị ảnh hưởng của tàn dư văn hóa độc hại, tệ nạn xã hội, đời sống tinh thần nhân dân nghèo nàn, lạc hậu..., nay, các thiết chế văn hóa mới được hình thành bên cạnh các thiết chế văn hóa truyền thống được gìn giữ, bảo tồn cùng các thành tựu về xây dựng đời sống văn hóa, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, đào tạo, dạy nghề, giới thiệu việc làm, đền ơn đáp nghĩa, xóa đói giảm nghèo, giảm nghèo - việc làm và các chương trình về an sinh xã hội khác, đã làm cho đời sống vật chất và văn hóa tinh thần nhân dân ngày càng được nâng cao, hướng đến trở thành xã văn hóa vào năm 2015, xã nông thôn mới vào năm 2020.
Về an ninh - quốc phòng, từ chỗ khó khăn, phức tạp của tình hình chính trị trong những ngày đầu sau chiến tranh, nay, xã vươn lên về mọi mặt từ xây dựng lực lượng đến củng cố quan điểm, lập trường tư tưởng chính trị về quốc phòng và an ninh quốc gia, đã giữ vững ổn định an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trên địa bàn, từng bước xây dựng nền quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân dân làm nhân tố quan trọng đảm bảo cho sự phát triển bền vững của địa phương.
Về xây dựng hệ thống chính trị, từ chỗ hệ thống chuyên chính vô sản trong những ngày sau giải phóng còn non trẻ với cấp ủy đảng chỉ có vài đảng viên, bộ máy chính quyền cách mạng còn hạn chế về trình độ, chưa có kinh nghiệm quản lý xã hội, đến năm 2010, xã đã có 81 đảng viên, với hệ thống Đảng, chính quyền, Mặt trận và đoàn thể không ngừng được nâng lên về trình độ chính trị, chuyên môn và năng lực quản lý xã hội đáp ứng yêu cầu tình hình mới. Qua các kỳ đại hội, Đảng bộ xã luôn nghiêm khắc nhìn lại quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, rút kinh nghiệm và đề ra phương hướng mới, cùng với việc thực hiện cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng, cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”, cải cách hành chính Nhà nước, thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở ..., đã đem đến những thành quả đáng khích lệ, góp phần làm cho hệ thống chính trị được củng cố, kiện toàn, dân chủ trong xã hội được phát huy, tạo sự đồng thuận xã hội đối với các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước và các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương ngày càng cao, các tổ chức chính trị và đoàn thể quần chúng ngày càng phát triển, tập hợp ngày càng nhiều các tầng lớp nhân dân vào những tổ chức sinh hoạt chính trị và hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, khối đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và phát huy sức mạnh.
Những thành tựu đạt được khẳng định ý chí tự lực tự cường vượt qua khó khăn của Đảng bộ và nhân dân Phước Tuy trong việc nỗ lực thực hiện và vận dụng đường lối của Đảng Một cách đúng đắn, sáng tạo và phù hợp với yêu cầu thực tiễn đặt ra.
*
Thành tựu trong suốt 35 năm của sự nghiệp xây dựng và phát triển ở Phước Tuy đến từ nhiều nguyên nhân, nhưng cơ bản là do các yếu tố sau:
Thứ nhất, là vai trò của Đảng bộ. Dưới sự lãnh đạo của Huyện ủy huyện Cần Đước, Đảng bộ xã Phước Tuy dù trong hoàn cảnh và tình huống nào đi nữa, luôn lấy đoàn kết thống nhất trong nội bộ, dựa vào nhân dân, giữ mối liên hệ gắn bó với nhân dân và khẳng định là người lãnh đạo tuyệt đối của phong trào cách mạng tại địa phương làm quan điểm chủ đạo và xuyên suốt để chi phối mọi chủ trương và kế hoạch hành động. Nhờ vậy, nghị quyết của Đảng ở địa phương đảm bảo đi vào cuộc sống để hướng dẫn nhân dân thực hiện hoàn thành nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Vai trò nền tảng ấy của thành tựu cách mạng cho thấy yếu tố lãnh đạo của Đảng có tính chất quyết định.
Thứ hai, là vai trò của chính quyền. Từ những ngày đầu của thời kỳ quân quản, chính quyền cách mạng rồi chính quyền nhân dân, làm nhiệm vụ hàng gắn vết thương chiến tranh cho đến cải tạo xã hội chủ nghĩa, đến giai đọan đổi mới và bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, bộ máy nhà nước xã Phước Tuy dù trong mọi điều kiện, hoàn cảnh, luôn nỗ lực lớn trong việc cụ thể hóa nghị quyết của Đảng các cấp một cách phù hợp vào điều kiện thực tiễn để tổ chức quản lý và điều hành, nâng cao năng lực nhà nước, khai thác và phát huy nguồn lực xã hội có hiệu quả, phát triển kinh tế - xã hội và an ninh - quốc phòng ở địa phương.
Thứ ba, là vai trò của nhân dân. Truyền thống lao động cần cù của các thế hệ cha ông đi mở đất, tinh thần bất khuất kiên cường trong hai thời kỳ kháng chiến và ý chí hoài bão vươn lên đạt những mục tiêu trong cuộc sống mới và làm giàu đẹp quê hương của nhân dân Phước Tuy được Đảng tiếp tục khơi dậy và phát huy vào nhiệm vụ cách mạng trong thời kỳ mới, đã tạo nên sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp chung.
35 năm của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc để lại những kinh nghiệm quý báu cho Đảng bộ Phước Tuy trong việc lãnh đạo công cuộc xây dựng và phát triển địa phương trong thời gian tới.
Một là, về lãnh đạo và tổ chức triển khai nghị quyết của Đảng, phải quán triệt và bám chắc đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đồng thời với xây dựng chương trình hành động cụ thể cho từng nhiệm kỳ, từng năm, từng ngành, trên cơ sở vận dụng sáng tạo và phù hợp vào điều kiện cụ thể của địa phương; phải nhìn xa để đề ra xu hướng phát triển lâu dài đồng thời với nắm bắt kịp thời diễn biến, những vấn đề mới nảy sinh để xác định những mục tiêu, chỉ tiêu phù hợp với yêu cầu phát triển cho trước mắt của địa phương; phải có quan điểm tự lực, không trông chờ ỷ lại nhưng phải biết tranh thủ sự đầu tư của trên, đồng thời với phát huy thế mạnh của địa phương để khai thác, hạn chế điểm yếu để dần khắc phục.
Hai là, về tổ chức thực hiện, phải năng động linh hoạt, khai thác tiềm năng, thế mạnh nội tại bên cạnh tranh thủ hiệu quả sự hỗ trợ của trên để có những đột phá vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội trọng yếu nhằm tác động đến các lĩnh vực khác. Quá trình ấy cần có nhân điển hình, kết hợp kiểm tra đôn đốc gắn với khen thưởng và kỷ luật kịp thời để làm động lực và bài học trong thực hiện nhiệm vụ được giao, đảm bảo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị đề ra.
Ba là, về quan điểm xây dựng hệ thống chính trị, phải giữ vững tính đoàn kết thống nhất trong Đảng bộ trên cơ sở đấu tranh nội bộ, lấy chính trị làm gốc, lấy tư tưởng làm đầu, nỗ lực sáng tạo, tìm tòi phương thức lãnh đạo hiệu quả nhằm đổi mới hoạt động nhưng đồng thời giữ vững những vấn đề có tính nguyên tắc, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ. Tăng cường mối quan hệ gắn bó mật thiết giữa Đảng với nhân dân bằng cách bám địa bàn, lắng nghe, thấu hiểu để thấu tâm tư và nguyện vọng của dân.
Cuối cùng, là nhân tố con người. Nghị quyết của Đảng đi vào cuộc sống thông qua cán bộ, đặc biệt là vai trò của cán bộ cơ sở, từ đó, hệ thống chính trị mới phát huy vai trò lãnh đạo xã hội, cũng như các nguồn lực xã hội mới được huy động vào nhiệm vụ chính trị ở địa phương. Công tác cán bộ vì vậy phải luôn được chú trọng. Việc đánh giá cán bộ phải toàn diện khách quan, qui hoạch, bồi dưỡng, đào tạo và bố trí sử dụng phải đúng qui trình, khoa học và hợp lý trên cơ sở xuất phát từ yêu cầu của nhiệm vụ đặt ra. Thực hiện được điều đó chính là khai thác và phát huy tiềm năng lớn nhất và quí nhất - tiềm năng con người, để đáp ứng yêu cầu phát triển của địa phương.
Dù vẫn còn đó những vấn đề cần quan tâm tháo gỡ, khắc phục cho chặng đường sắp tới của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhưng thành quả trên chặng đường đã qua thực sự là di sản quí báu đã đổi bằng mồ hôi, trí tuệ của thế hệ đi trước mà các thế hệ hôm nay và mai sau phải có trách nhiệm giữ gìn, nâng niu. Đảng bộ và nhân dân Phước Tuy hoàn toàn có quyền tự hào về thành quả cách mạng ấy, và xem đó là hành trang để kế thừa và phát huy trên con đường đưa địa phương phát triển bền vững, hướng đến mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” ở địa phương./.
(1) Số liệu điều tra năm 2012
(2) Mật độ dân số trung bình của huyện là 771 người/km2, của tỉnh là 294 người/km2.
(3) Trầm tích Holocen thuộc vùng đất thấp, có độ cao khoảng vài mét, hoặc thấp hơn so với mặt nước biển. Vật liệu trầm tích là cát mịn, bùn sét màu xám nhạt hay xám đen, đặc biệt là không có thành tạo latêrit, không chứa sạn, sỏi, hoặc cuội; là các trầm tích châu thổ, bao gồm các trầm tích ven biển, trầm tích nước lợ và nước ngọt. Sự phân bố các trầm tích này do biển tiến, rồi biển thoái tiếp sau đó thống trị. (Theo Địa chí Long An, Nxb Long An & KHXH, 1989).
(4) Theo số liệu của trạm quan trắc Tân An, nhiệt độ bình quân năm dao động từ 25-300C, tháng 4 là nóng nhất (290C), tháng 1 là thấp nhất (24,70C). Số nắng bình quân trong năm từ 2.400 giờ; lượng mưa trung bình hàng năm 1.447,7mm/năm.
(5) Trong tháng có hai lần triều cường (ngày mồng 1 và ngày 15 âm lịch) và hai lần triều thấp (ngày mồng 7 và ngày 23 âm lịch).
(1) Từ đầu thế kỷ XVII, lưu dân người Việt từ dãi đất miền Trung gian khó, do không chịu nổi sự áp bức đến cùng cực của chế độ phong kiến Đàng Trong và sự tàn hại giữa hai tập đòan phong kiến Trịnh - Nguyễn, đã vượt biển vào vùng đất phía nam - nơi mà chế độ phong kiến hà khắc chưa với tới với hy vọng tạo dựng cuộc sống mới ở một vùng đất nghe nói là dễ sống. Cùng với quá trình di dân tự do, sau hai cuộc chuyển cư có tổ chức của nhà Nguyễn vào các năm 1648 (Mậu Tý) và 1679 (Kỷ Mùi), năm 1698 (Mậu Dần), Lễ Thành hầu Nguyễn Hữu Cảnh theo lệnh chúa Nguyễn Phúc Chu vào kinh lược đất Nông Nại, dân số phía Nam đã lên 4 vạn hộ (khỏang 200.000 người), chúa Nguyễn đã thiết lập bộ máy hành chánh đầu tiên gồm hai huyện Phước Long và Tân Bình với hai dinh Trấn Biên và Phiên Trấn.
(2) Trong danh sách những nơi có nhà thờ, nhà nguyện của các giáo dân Thiên chú ở “Provincia Raigon” (tỉnh Sài Gòn, tức chỉ cả Nam Bộ) năm 1747, người ta thấy có các địa danh Miễu Xá Hương (Miễu Xá Hương), Rach Canh (Rạch Chanh ?), Cau Duoc (Cần Đước ?), Cau Dua (Cần Giuộc ?), Nha Ram (Nha Ràm). Tổ chức tôn giáo phản ánh sự tồn tại của tổ chức xã hội.
(1) Theo Nguyễn Đình Đầu, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn, Gia Định, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1994, kết quả của cuộc đạc điền năm 1836 cho biết số ruộng đất ba thôn Phước Tường là: 668 mẫu 1 sào, Phước Tuy là 925 mẫu 4 sào 12 thước, Phước Khánh là 773 mẫu 1 sào 11 thước 7 tấc. Qui đổi 1 mẫu ta bằng 4.494,4m2, nếu tính luôn phần đất của xã Phước Tuy nhập vào Tân Ân và thị trấn Cần Đước sau này, đất đai được khai phá ở Phước Tuy thời gian này là hơn 1.000 ha ruộng lúa, gần tương đương với ngày nay.
(2) Nguyễn Đình Đầu, Nghiên cứu địa bạ triều Nguyễn, Gia Định, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, 1994.
(3) Năm 1904, Pháp “chấn chỉnh” ban hội tề gồm 11 người, rồi sau đó là 12 người (1927) gồm Hương Cả, Hương Chủ, Hương Sư, Hương Trưởng, Hương Chánh, Hương Giáo, Hương Quản, Hương Bộ, Hương Thân, Hương Hào, Hương Xã, Chánh Lục Bộ, qui định nhiệm vụ và quyền hạn của từng người.
(1) Pháp xếp loại dân để đóng thuế gồm: tráng đinh (người có tài sản ít nhiều phải nộp thuế) và bạch đinh (người không có tài sản); duy trì việc thu thuế đinh và thuế điền, tăng nhanh mức thuế điền từ 1 đồng (7 quan) /1 mẫu ta trước đây lên 1,5 đồng /mẫu ta năm 1897, đồng thời cũng qui định lại diện tích đóng thuế để tăng thuế, từ 4.970m2 cho 1 mẫu Bắc Bộ, nay rút xuống còn 3.600m2 để thu được nhiều hơn.
(2) Nguyễn Trung Trực đã xây dựng 2 cứ điểm ở Hóc Thủ (gần Vàm Bến Trễ) và Chợ Mới (Kinh Xóm Bồ), nghĩa quân ở đây tham gia 120 người.
(3) Sau cách mạng tháng tám (1945), Chính phủ Việt Nam Dân chủ cộng hòa thành lập ở Nam Bộ 3 khu 7, 8, 9, Ủy ban Kháng chiến-Hành chánh Nam Bộ đổi quận (theo cách gọi phía địch) thành huyện, các làng cũng được đổi thành xã.
(4) Do yêu cầu kháng chiến, Ủy ban Kháng chiến- Hành chánh Nam Bộ chia Nam Bộ thành hai phân liên khu: Phân liên khu miền Đông và Phân liên khu miền Tây, lấy sông Tiền làm ranh giới. Các huyện Cần Giuộc, Cần Đước và Nhà Bè hợp thành Liên Huyện.
(1) Sắc lệnh số 143-NV ngày 22-10-1956 sáp nhập tỉnh Chợ Lớn và một phần tỉnh Tân An (quận Thủ Thừa, Tân Trụ, Châu Thành), lập tỉnh Long An. Nghị định số 132-BVN/HC/ND ngày 24-4 1957 của Bộ trưởng Nội vụ Việt Nam cộng hòa chia Long An thành 7 quận, 18 tổng, 101 xã.
(1) Theo thống kê đến năm 1976, xã có 927 người chưa biết chữ.
(1) Số ngụy quân, ngụy quyền trên địa bàn xã là 300 người.
(2) Trong 5 ngày từ 1-5 đến ngày 5-5-1975, toàn huyện Cần Đước có trên 5.000 người ra trình diện.
(1) Ban Chấp hàng Đảng bộ tỉnh Long An, Lịch sử Đảng bộ tỉnh Long An (1930-2000), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005.
(2) Đó là: “ Chỉ trừ số ít những kẻ ngoan cố, cam tâm bán nước, làm tay sai cho Mỹ gây nhiều tội ác với dân, với nước, cách mạng hoan nghênh những ai quay về với dân tộc, những người có công xét khen thưởng tùy theo mức độ, không phân biệt đối xử. Ai vì lợi ích dân tộc mà gặp khó khăn sẽ được cách mạng giúp giải quyết khó khăn. Ai đưa vốn ra kinh doanh cách mạng khuyến khích. về với cách mạng, ai muốn có việc làm, cách mạng tạo cho việc làm, ai muốn tham gia công tác cách mạng, sẽ được cách mạng giao cho công việc thích hợp”. Trong chính sách đối xử với công chức, sĩ quan, binh lính chế độ cũ, một mặt ta kiên quyết nghiêm trị những tên ngoan cố, mặt khác khẳng định rõ “những công chức làm việc cho địch vì hoàn cảnh, vì đồng lương không gọi là ngụy quyền”.
(3) Lên đến 2.000 người
(4) Ngay sau ngày giải phóng, để giải quyết tình hình khó khăn về cán bộ, bên cạnh việc phát triển đảng viên mới, khôi phục đảng tịch cho các đảng viên bị bắt, bị tù đày trước đây, Huyện ủy kết hợp với Trường Đảng tỉnh mở nhiều lớp đào tạo huấn luyện cán bộ ngắn ngày (mỗi khóa 15 ngày), đào tạo hơn 70 cán bộ của huyện về công tác chính trị và nâng cao năng lực công tác cơ sở, đáp ứng yêu cầu cách mạng trong thời kỳ mới.
(1) Giữa tháng 6-1975, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Long An họp đề ra nhiệm vụ trọng tâm là đẩy mạnh khôi phục và phát triển sản xuất, trong đó, kinh tế nông nghiệp được xác định là khâu căn bản. Tỉnh ủy và Uy ban nhân dân cách mạng đã trực tiếp chủ trì nhiều cuộc họp tại các huyện để bàn biện pháp tổ chức thực hiện, như khai hoang phục hóa, thâm canh tăng vụ, làm thủy lợi, vận động quần chúng tương trợ lẫn nhau… (Theo Lịch sử Đảng bộ tỉnh Long An 1930-2000, Nxb Chính trị quốc gia, 2005).
(2) Gồm các đồng chí: Nguyễn Thị The (Trưởng ban), Trần Văn Inh (Phó ban), Phạm Hữu Trân, Nguyễn Thị Kim (thư ký, kỹ thuật), Lê Thị Kịp, Phạm Thị So (Y tế), Huỳnh Văn Tự (Hậu cần).
(3) Công trình thủy lợi Cầu Chùa gồm hệ thống 10 kinh tiêu nội đồng, 1 đê ngăn nước mặn dài 22.197m liên 3 xã Tân Lân, Mỹ Lệ, Phước Đông và 6 con đập, trong đó, đập Cầu Chùa là con đập ngăn mặn lớn nhất là một công trình thủy lợi lịch sử, với sự góp sức của nhân dân toàn huyện, được phát động và khởi công ngày 10-3-1976, hòan thành vào tháng 10-1976, nhằm phá thế ngăn cách trung tâm thị trấn Cần Đước với các vùng xung quanh và ngăn mặn, trữ ngọt, cải tạo đất, góp phần tăng diện tích từ 1 vụ lên 2 vụ ổn định cho hàng trăm héc-ta ruộng ở khu vực. Trong ký ức của cán bộ và nhân dân Cần Đước hiện nay, chưa ai quên hình ảnh trên công trường đập Cầu Chùa trong những năm tháng ấy.
(4) Đến cuối năm 1976, xã tổ chức 12 lớp bình dân học vụ với 128 học viên
(1) Đến cuối năm 1976, xã còn 58/300 đối tượng ngụy quân, ngụy quyền còn bị quản chế nhưng không có biểu hiện nguy hiểm.
(2) Xã đưa 12 thanh niên, trong đó có 5 đoàn viên đi xây dựng kinh tế của tỉnh
(1) Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Cần Đước lần thứ I/1976.
(1) Ngay trong 6 tháng đầu năm 1978 đã đào 1 con kinh ở ấp 3 dài 1.400 m với khối lượng đất 2.400 m3, sửa đập 2-9 và một bờ bao ngăn mặn dài 750m, tổng số lượng nhân công 3.422 người.
(1) Trong cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam Tổ quốc, sau khi ta phản công trên toàn tuyến Mộc Hoá, Đức Huệ, rạng sáng 30-12-1977, địch phải rút chạy, ta đẩy lùi địch về phía bên kia biên giới, giải phóng một vùng rộng lớn từ Đức Huệ đến Long Khốt. Chấp hành chủ trương của Trung ương Đảng và Thường vụ Tỉnh ủy về việc khẩn trương xây dựng tuyến đường phòng thủ biên giới thuộc hai huyện Mộc Hóa và Đức Huệ (còn gọi là con đường quốc phòng), cùng với lực lượng vũ trang tỉnh, nhân dân Phước Tuy cùng toàn huyện đã góp mặt trong 7 vạn dân công trên toàn tỉnh và hàng vạn dân công các huyện biên giới, suốt hơn 40 ngày đêm thi công đoạn đường dài hơn 100 km (từ Mỹ Quí Tây-Đức Huệ đến Hưng Điền-Vĩnh Hưng), hàng ngàn mét hào lũy, góp phần bảo vệ vùng biên giới vừa giải phóng, đảm bảo việc phòng thủ quốc gia hiện tại và lâu dài.
(1) Cách mạng quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học kỹ thuật và cách mạng văn hóa-tư tưởng
(1) Ngay trong năm 1978, xã tổ chức 19 lớp bình dân học vụ vớ 150 học viên.
(2) Xã vận động 93 công lao động đắp nền dài 9m, ngang 7m, cao 0,9m
(1) Ngày 13-1-1981, Ban Bí thư ban hành Chỉ thị số100-CT/TW về Cải tiến công tác khoán, mở rộng “khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động” trong hợp tác xã nông nghiệp. Chỉ thị này cho phép áp dụng chế độ khoán trong toàn bộ nền nông nghiệp cả nước. Chế độ khoán này thường được gọi tắt là Khoán 100. Mục đích của Khoán 100 nhằm phát triển sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế, năng suất lao động, nâng cao thu nhập của người lao động. Khoán 100 thực hiện theo nguyên tắc quản lý và sử dụng có hiệu quả tư liệu sản xuất, trước hết là ruộng đất, quản lý và điều hành lao động phải trên cơ sở gắn với kết quả cuối cùng của sản xuất, thực hiện khoán theo 5 khâu và 3 khâu; trong phân phối giải quyết hài hòa mối quan hệ lợi ích người lao động. Phạm vi áp dụng của Khoán 100 là đối với mọi loại cây trồng và vật nuôi.
Khoán 100 đã đưa lại tác dụng phân chia lại chức nǎng kinh tế giữa tập thể và hộ gia đình cả về quan hệ sở hữu, quan hệ quản lý và phân phối, mở đầu cho quá trình dân chủ hoá về mặt kinh tế, bằng việc gắn bó trở lại lao động với ruộng đất, mang lại lợi ích thiết thực cho nông dân, tạo ra động lực kích thích phát triển sản xuất. Xét về mặt cơ chế quản lý kinh tế, Khoán 100 đã phá vỡ cơ chế tập trung quan liêu trong sản xuất nông nghiệp, trong thời gian đầu, đã có tác dụng làm sống động nền kinh tế nông thôn và tạo ra một khối lượng nông sản lớn hơn so với thời kỳ trước, là tiền đề cho Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 10 (tháng 4-1988), còn gọi là Khoán 10, tạo nên bước đột phá về nông nghiệp, đưa nước ta từ chỗ thiếu lương thực trở thành nước xuất khẩu 1,2 triệu tấn gạo trong năm 1989.
(1) Tại Đại hội Đảng bộ tỉnh Long An lần thứ III nhiệm kỳ 1983-1985, Tỉnh ủy đã đề ra 4 chương trình trọng điểm là: Chương trình lương thực-thực phẩm, Chương trình hàng tiêu dùng, Chương trình hành xuất khẩu và Chương trình Đồng Tháp Mười. Chương trình Đồng Tháp Mười là một chương trình tổng hợp với các nhiệm vụ trước mắt và lâu dài nhằm khai thác tiềm năng vùng Đồng Tháp Mười. Trong giai đoạn đầu vào thời gian này, nhiệm vụ của Chương trình này là huy động nguồn lực phía Nam của tỉnh, trong đó có các xã thuộc Cần Đước vêm Đồng Tháp Mười khai tác và xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn, trong đó có mô hình xã B, tập đoàn B hay gọi là cơ sở II.
(1) Tổng số cán bộ thường trực là 11 ngươi, trong đó: chủ nhiệm và phó chủ nhiệm: 2, kế toán-thống kê: 2, bán hàng: 4 và nghiệp vụ khác: 3
(2) Trong năm 1985 tăng 296 cổ phần trên tổng số 436 cổ phần; Doanh số bán ra của năm 1984 là 681.891, 50 đồng nhưng chỉ trong 6 tháng đầu năm 1985 đã đạt 485.757, 50 đồng.
(3) Có 181 người mua công trái bằng thóc là 150 kg và bằng tiền là 16.700 đồng; 102 hộ gửi tiền tiết kiệm số tiền là 13.400 đồng.
(1) Năm 1985 huy động được 623, 23 tấn , trong đó thuế là 243, 93 tấn, gấp hai lần so với năm 1981.
(2) Năm 1985 thu 560.052,87 đồng, chi 364.755 đồng.
(3) Năm 1985 huy động 422 lao động, trong đó lao động trực tiếp là 44.
(1) Riêng trong năm 1985, đã chữa trị bằng phương pháp Đông Tây y kết hợp cho 5.849 người, hốt 655 thang thuốc Nam , châm cứu 2.405 người.
(2) Ngay trong năm đầu tiên đã triển khai tuyên truyền vận động đã có 50 người tham gia thực hiện.
(3) Xã cấp sổ lương thực hàng tháng cho 12 gia đình chính sách neo đơn, không nơi nương tựa.
(1) Riêng trong năm 1985 đã tổ chức trong nhân dân 34 cuộc gồm 680 lượt người tham dự học tập và cho 237 học sinh cấp II tham gia học tập.
(1) Thư ký ủy ban, Tài chánh, Quân sự, Công an và Văn hóa xã hội.
(2) Đến năm 1985, Mặt trận Tổ quốc được củng cố với ban chấp hành gồm 13 đồng chí. Đoàn Thanh niên phát triển với tổng số 59 đoàn viên.
(1) Nghị quyết Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 8 (khóa V), tháng 6-1985.
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.1987.
(3) Văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Long An lần IV, Nxb Long An, 1987.
(1) Nội dung của Nghị quyết 08 của Huyện ủy Cần Đước là “trả hoa lợi bằng đất” thay cho trả hoa lợi bằng lúa như trước đây. Chủ trương này nhằm giao lại ruộng đất cho nông dân phát huy vai trò kinh tế hộ.
(1) Tính từ đầu năm 1989 đến 6 tháng đầu năm 1991 có 116 đơn khiếu nại tranh chấp đất đai, đã giải quyết triệt để 93 trường hợp, còn lại do tính chất phức tạp tiếp tục xác minh làm rõ.
(2) Ngay trong đợt I đã có 1.025 hộ /1.250 hộ có ruộng đất canh tác đăng ký và kê khai.
(3) Năm 1998, Kênh 30-4 giao về xã Tân Ân quản lý.
(4) Diện tích gieo trồng năm 1989: 1.370 ha, trong đó, hè thu: 400 ha, năng suất 3,5 tấn/ha, sản lượng: 1.420 tấn; lúa mùa: 570 ha, năng suất 3 tấn/ha, sản lượng: 1.710, tổng sản lượng 4.730 tấn. Diện tích gieo trồng năm 1990: 1.370 ha, trong đó, hè thu: 450 ha, năng suất 2 tấn/ha, sản lượng 300 tấn, đông xuân: 150 ha, năng suất 2,5 tấn/ha, sản lượng 375 tấn, lúa mùa: 820 ha, năng suất 3 tấn/ha, tổng sản lượng: 3.115 tấn. Diện tích gieo trồng năm 1991: 1.379 ha, năng suất 4 tấn/ha, sản lượng 1.740 tấn.
(1) Tổng kinh phí trải sỏi đỏ hương lộ 21 là 20.763.860 đ , trong đó nhân dân đóng góp 3.113.6000 đ, còn lại là ngân sách xã và huyện. Tổng kinh phí xây dựng 3 cấy cầu là 10.000.000 đ, trong đó, huyện là 3.000.000 đ, xã là 600.000 đ, còn lại là nhân dân đóng góp.
(1) Tính từ 1989-1991, có 18 trường hợp sang nhượng và 33 trường hợp chuyển mục đích sử dụng trái phép.
(2) Đến năm 1991, bình quân 20 nhà có 1 radio cassette và 50 nhà có 1 tivi.
(1) Riêng năm 1991 đạt tỉ lệ 85,7% (193/225 trẻ)
(1) Phát động phong trào quần chúng bảo vệ an ninh Tổ quốc, từ 1989-1991, xã tổ chức phát động 37 cuộc với 747 lượt người tham dự, xây dựng 7 ban tự quản tại 7 ấp với 14 đồng chí và 43 tổ tự quản, tiến hành truy quet 74 cuộc. Nhờ đó, nhân dân tố giác bắt 3 đối tượng tội phạm, vận động 22 quân nhân đào ngũ, phát hiện 1 đối tượng lừa đảo, 17 trường hợp cư trú bất hợp pháp, khảo sát 516 đối tượng chính trị các loại, kịp thời phát hiện và xử lý nhiều vụ việc về trật tự xã hội. Nhiều gương về tinh thần tự quản xuất hiện trong thời gian này.
(1) Trong nhiệm kỳ, chi bộ đã xử lý kỷ luật 3 đảng viên do không còn thiết tha với tổ chức..
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ huyện Cần Đước lần thứ VI, 11-1991.
(1) Trong đó, năm 1991, diện tích gieo trồng vụ Hè Thu là 435 ha, năng suất trung bình 4 tấn/ha, sản lượng 1.740 tấn; Đông Xuân là 447 ha, năng suất 3,5 tấn/ha, sản lượng 1.564 tấn; vụ mùa là 401 ha, năng suất 3,2 tấn/ha, sản lượng 1.671tấn. Năm 1992, diện tích gieo trồng vụ Hè Thu là 440 ha, năng suất trung bình 4,2 tấn/ha, sản lượng 1.848 tấn; Đông Xuân là 450 ha, năng suất 3,7 tấn/ha, sản lượng 1.665 tấn; vụ mùa là 487 ha, năng suất 3,4 tấn/ha, sản lượng 1.656 tấn. Năm 1993, diện tích gieo trồng vụ Hè Thu là 446 ha, năng suất trung bình 4,5 tấn/ha, sản lượng 2.007 tấn; Đông Xuân là 457 ha, năng suất 4 tấn/ha, sản lượng 1.828 tấn; vụ mùa là 477 ha, năng suất 3,5 tấn/ha, sản lượng 1.669 tấn.
(2) Năm 1995-1996, diện tích gieo trồng vụ hè thu là: 569ha, năng suất 3,8 tấn/ha, sản lượng 2.162 tấn; diện tích gieo trồng vụ mùa là 401 ha, năng suất 3,5 tấn/ha, sản lượng 1.403 tấn; diện tích gieo trồng vụ đông xuân 569ha, năng suất 3,8 tấn/ha, sản lượng 2.162 tấn.
(1) Riêng năm 1995 thu thuế nông nghiệp đạt 85,2%; thu ngoài quốc doanh đạt 103%.
(2) Chỉ riêng trong năm 1995, để giải quyết nhu cầu giao thông nông thôn và phòng chống lũ lụt và nước mặn tràn xâm nhập ở khu vực đập Bến Trễ, xã huy động 122/1000 lao động công ích trực tiếp và 44/60 lao động gián tiếp, kết hợp với các nguồn lực khác thi công 3 công trình nâng cấp đường gioa thông bằng đất đen với chiều dải 4.900m, khối lượng 6.757m3, 5 công trình đường giao thông khác vừa bằng đất đen (khối lượng 2.420 m3) vừa sỏi đỏ (khối lượng 1.613m3) với chiều dài 9.000m, trong đó nguồn vốn do dân đóng góp là 94.646.000 đ và nhà nước là 19.000.000 đ; sửa chữa cầu Hàn, nâng cấp hương lộ 21 đoạn từ cầu Hàn đến bến đò Xã Bảy với chiều dài 660m, khối lượng 500m3 đất đen và 436m3 đá đỏ với tổng kinh phí 14.000.000 đ; nạo vét kênh N2 (ấp 2) với chiều dài 400m, khối lượng đào đắp 360m3 và tu sửa đê bao ngăn mặn ở ấp 1 với chiều dài 1.400m, khối lượng 400m3; gia cố các mặt đập và nâng cấp các tuyến bờ bao ven sông Vàm Cỏ với chiều dài 260m, khối lượng 450m3 bằng kinh phí chống lũ là 4.500.000đ.
(3) Riêng trong năm 1995, có 7 trường hợp khiếu kiện nhưng hòa giải không thành đã chuyển về trên thụ lý.
(1) Năm 1995, xã tiến hành cam kết đối với 97 hộ có phương tiện đầu máy và không sử dụng băng video có nội dung không lành mạnh, kiên quyết xử lý nghiêm tệ nạn cờ bạc, đá gà…
(2) Lễ Kỳ Yên tại đình Phước Khánh, ấp 1, xã Phước Tuy, diễn ra vào ngày 15 đến 16 tháng 1, Lễ cúng Bà Chúa Xứ tại Miếu Bà, ấp 2, xã Phước Tuy, diễn ra vào ngày 16 đến 17 tháng 2, Lễ Kỳ Yên tại đình Phước Tuy, ấp 5, xã Phước Tuy, diễn ra vào ngày 15 đến 16 tháng 2, Lễ cúng Bà Chúa Xứ tại Miếu Bà ấp 6, xã Phước Tuy, diễn ra vào ngày 15 đến 16 tháng 2, Lễ Kỳ Yên tại đình Phước Chỉ, ấp 7, xã Phước Tuy, diễn ra vào ngày 12 đến 13 tháng 2.
(3) Đến năm 1995, xã hoàn thành công tác điều tra xã hội học tại 7 ấp với 990 phiếu điều tra tại 140 gia đình để vận động xây dựng gia đình văn hóa
(1) Đến năm 1995, cơ sở vật chất trường học ở xã có 5 phòng được xây dựng kiên cố, 7 phòng học bán kiên cố và 2 phòng học mẫu giáo. Tổng số giáo viên là 31, riêng năm 1995 có 2 giáo viên giỏi cấp huyện và 5 giáo viên giỏi cấp cơ sở. Năm học 1995-1996, số học sinh từ 6-11 tuổi ra lớp là 949/1005 em (đạt 94,4%), trong đósố được huy động ra lớp 1 là 107/11 em (đạt 96,5%). Tỉ lê học sinh chuyên cần đạt 97%. Tỉ lê học sinh lên lớp đạt 90%. Tỉ lê học sinh đỗ vào lớp 6 đạt 92,6%.
(2) Chỉ riêng trong năm 1995 đã khám và điều trị 817 lượt bệnh thông thường, 103 lượt phụ khoa và 38 ca sản khoa.
(3) Chỉ riêng trong năm 1995, tiêm chủng mở rộng : 153/244 (đạt 61%); Vitamin A2: 51/244 (23%); vòng 1 thanh toán bại liệt: 720/1127 (đạt 63%); vòng 2 thanh toán bại liệt: 711/1127 (đạt 68%). Trong năm phát hiện 27 ca sốt xuất huyết và điều trị kịp thời, không có trường hợp tử vong. 17 ca bệnh lao được quản lý theo dõi, điều trị khỏi bệnh 10 ca.
(4) Qua 2 đợt vận động chiến dịch truyền thông dân số kế hoạch hóa gia đình trong năm 1995, có 429/1009 (chiếm 42% số người trong độ tuổi sinh đẻ) cặp vợ chống thực hiện, đạt chỉ tiêu 70,7% huyện giao.
(5) Đến năm 1995, tiếp tục thực hiện Nghị định 28/CP, xã lập thêm 34/44 hồ sơ thuộc diện tái giá, đề nghị về trên phục hồi quyền lợi chính trị và giải quyết chế độ chính sách; hoàn tất 17/18 hồ sơ thuộc đối tượng bị tù đày, tra tấn, 15 hồ sơ thâm niên kháng chiến đề nghị về trên giải quyết chế độ chính sách; lập danh sách 83 mộ liệt sĩ ở địa phương và ngoài địa phương để đề nghị hỗ trợ xây mộ; lập 44 hồ sơ khen thưởng 3 thời kỳ; qui tập 7 hài cốt liệt sĩ về nghĩa trang liệt sĩ huyện; hỗ trợ viện phí cho 68 hộ, gồm 287 nhân khẩu thuộc diện chính sách nghèo khó theo tinh thần Nghị định 95/CP.
(1) Riêng trong năm 1995, đã giải quyết cho 158 hộ nghèo vay ưu đãi với số tiền là 157.200.000 đ; các dự án chăn nuôi thông qua các đoàn thể đã giải quyết cho 64 hộ với số tiền 11.000.000 đ, cũng với lãi suất ưu đãi.
(1) Trong năm 1995, tổ chức Mặt trận và đoàn thể thị trấn được củng cố và kiện toàn như sau:
- Ủy ban MTTQ có 17 thành viên, 7/7 ấp có ban Mặt trận.
- Ban Chấp hành Hội nông dân có 5 đồng chí, xóa ấp “trắng”, phát triển 46 hội viên, 6 tổ nhóm đa dạng với 35 hội viên.
- Ban Chấp hành Hội Phụ nữ có 5 đồng chí, xóa ấp “trắng”, phát triển 65 hội viên.
- Ban Chấp hành Đoàn Thanh niên có 3 đồng chí, xóa 6/7 ấp “trắng”, phát triển 43 đoàn viên.
- Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam tổ chức được 2 chi hội với 34 hội viên.
- Câu lạc bộ gia đình trẻ tổ chức được 2 câu lạc bộ với 24 thành viên.
- Ban Chấp hành Hội Cựu chiến binh có 5 đồng chí, xóa 6/7 ấp “trắng”, phát triển 28 hội viên.
- Ban Chấp hành Hội Chữ thập đỏ có 5 đồng chí, xóa 7/7 ấp “trắng”, phát triển 48 hội viên. Xây dựng 2 đội mai táng với 34 thành viên; 2 đội thanh niên xung kích với 24 thành viên.
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
(1) Báo cáo chính trị đại hội chi bộ xã Phước Tuy nhiệm kỳ (1996-2000).
(1) Văn kiện Đại hội Đại biểu Đảng bộ huyện Cần Đước lần thứ VII, 1-1996.
(1) Đến năm 2000, xã đã cấp giấy quyền sử dụng ruộng đất cho 1.548/1.593 hộ (đạt 97%)
(2) Riêng năm 2000, xã đã phối hợp xét giải quyết cho dân vay số tiền 2.700.000.000 đ.
(3) Từ địa phương chỉ khu vực ven sông thuộc hạ lưu các con sông Vàm Cỏ Đông, Vàm Cỏ canh tác chỉ 1 vụ.
(4) -Năm 1996, diện tích gieo trồng: 1. 518 ha, sản lượng 5.678 tấn.
-Năm 1997, diện tích gieo trồng: 1.554 ha, sản lượng 4.677 tấn.
-Năm 1998, diện tích gieo trồng: 1.672 ha, sản lượng 6.048 tấn.
-Năm 1999, diện tích gieo trồng: 1.672 ha, sản lượng 5.019 tấn.
-Năm 2000, diện tích gieo trồng: 1.739 ha, sản lượng 4.760 tấn.
(1) Huy động lao động công ích phục vụ cho xây dựng kết cấu hạ tầng giao thông thủy lợi trong các năm: 1997 là 122/1000 lao động trực tiếp, 44/60 lao động gián tiếp; năm 1998 là 881/1000 lao động trực tiếp, 21/44 loa động gián tiếp, đạt 98.7%; năm 1999 là 307 lao động gián tiếp với số tiền là 21.730.000 đ; năm 2000 là 654 lao động gián tiếp với số tiền là 31.920.000 đ và tổ chức điều 50 lao động trực tiếp thi công các công trình đê bao sông Vàm Cỏ bị sạt lở, đạt 76%.
(2) Tổng số vốn đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng trong nhiệm kỳ là: 2.547.000.000 đ, trong đó, vốn Trung ương là 884.000.000 đ, vốn huyện là 1.223.000.000 đ và vốn nhân dân là 440.000.000 đ.
(3) Trong nhiệm kỳ, 15 công trình giao thông, thủy lợi lớn nhỏ được sửa chữa, tu bổ, nâng cấp, 4 công trình xây dựng mới được thi công với tổng kinh phí 665.500.000 đồng, trong đó, Nhà nước là 491.000.000 đồng, nhân dân là 151.000.000 đồng và còn lại là nguồn từ UNICEF.
tổng kinh phí xây dựng kết cấu hạ tầng
(1) Tổng thu ngân sách trong nhiệm kỳ là 1.516.000.000đ, năm cao nhất đạt 110% 91998), năm thấp nhất là 100, 37% (1996); tổng chi 1.512.600.000đ, năm cao nhất là 101 % (năm 2000), năm thấp nhất là 98% (1998).
(1) Đến năm 1999, xã vẫn còn 30 ha đất hoang hóa chưa thể khai thác sản xuất; 120 ha có sản lượng lúa chỉ đạt 1-1,5 tấn /ha.
(2) Qua tổng điều tra đất đai năm 2000 đã có 682 trường hợp biến động từ đất nông nghiệp chuyển sang thổ cư và mục đích khác.
(1) Trong nhiệm kỳ có 4 giáo viên được kết nạp Đảng
(2) Năm 1996: 1.025 người, năm 1997: 1.469 người, năm 1998: 1.840 người, năm 1999: 2.056 người và năm 2000: 2.300 người.
(1) Xã hoàn tất hồ sơ và đề nghị cấp 66 huân huy, chương, bằng khen cho cán bộ nhân dân có công trong kháng chiến, xét đề nghị giải quyết 34 hồ sơ vợ liệt sĩ tái giá, 23 hồ sơ tù đài bị tra tấn 10 hồ sơ thâm niên kháng chiến.
(2) Năm 1996: 25%, năm 1997: 23%, năm 1998: 22%, năm 1999: 20% và năm 2000: 14%.
(3) Riêng trong năm 2000, xã tổ chức vận động cứu trợ lũ lụt ở Đồng bằng sông Cửu Long với số tiền là 10.059.000 đ.
(1) Năm 1999, xã tổ chức phát động 18 cuộc với 571 người dự, năm 2000 tổ chức 13 cuộc với 689 người dự, nội dung phát động quần chúng phòng chống tội phạm.
(2) Đến năm 2000, xã xây dựng 15 tổ tự quản với 44 thành viên, 3 đội dân phòng với 45 thành viên.
(3) Từ 19 vụ năm 1996 giảm xuống 15 vụ năm 1997, 13 vụ năm 1998, 12 vụ năm 1999 và năm 2000 còn 7 vụ.
(4) Năm 1996: 13/17, năm 1997: 14/16, năm 1998: 7/9, năm 1999: 10/12 và năm 2000; 12/13.
(5) Riêng trong năm 2000, xã tổ chức 15 cuộc với 748 người dự, nội dung là Pháp lệnh lao động công ích, Bộ Luật hình sự (sửa đổi) và các văn bản khác
(1) Hội viên năm 1996 là 762, năm 1997: 916, năm 1998: 1.042, năm 1999: 1.126. Đến năm 2000, toàn xã có 44 chi hội, 26 tổ hội với 1.312 hội viên, không còn “ấp trắng”.
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ XIX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, trang 19.
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ XIX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, trang 24.
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu tòan quốc lần thứ XIX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, trang 262.
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Long An lần VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội trang 33.
(1) Báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ xã Phước Tuy lần thứ I nhiệnm kỳ 2000 - 2005
(1) So với nghị quyết, diện tích gieo sạ cây lúa đạt 1.806ha/1.909 ha, sản lượng 7.224 tấn/7.624 tấn, bình quân lương thực đầu người là 886 kg /920 kg.
(2) Có đến 90% số hộ chăn nuôi phải dập dịch.
(1) Chương trình phát triển kinh tế-xã hội các xã đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa của Chính phủ.
(2) Năm 2001: 115%, năm 2002: 127%, năm 2003: 130%, năm 2004: 129, 3%, năm 2005: 137%.
(3) Tổng thu ngân sách xã năm 2001đạt 558.998.910 đ (103%), trong đó chi cho xây dựng cơ bản là 235.964.900đ. Năm 2002 đạt 460.180.341 đ (107%), trong đó chi cho xây dựng cơ bản là 197.453.000đ. Năm 2003 đạt 564.000.000 đ (123%), trong đó chi cho xây dựng cơ bản là 153.000.000 đ. Năm 2004 đạt 900.900.000 đ, trong đó chi cho xây dựng cơ bản là 292.600.000đ. Năm 2005, (đến tháng 10) đạt 747.4000.000 đ (85%), trong đó chi cho xây dựng cơ bản là 174.000.000đ.
(1) Nghị quyết chuyên đề về thực hiện giáo dục phổ cập giáo dục trung học cơ sở.
(1) Chỉ tiêu này chưa đạt trong nhiều năm liền, năm 2001: 41,8%, năm 2002: 44%, năm 2003: 45%, năm 2004: 50%, năm 2005: 100%.
(1) Trong nhiệm kỳ, tủ sách pháp luật được tăng cường 53 đầu sách
(2) Trong nhiệm kỳ, xã tổ chức 34 cuộc với 919 lượt cán bộ, đảng viên và trong nội bộ dự; 124 cuộc với 3.381 lượt quần chúng nhân dân dự. Ngoài ra, năm 2004, CLB pháp luật còn phối hợp với Mặt trận, đoàn thể tuyên truyền trong các ấp, chi tổ hội 64 cuộc với 1.537 lượt người dự.
(3) Trong nhiệm kỳ, xã phát hiện và kịp thời xử lý 6 vụ truyền đạo trái phép, 1 vụ sao chép phát tán kinh thánh, 1 vụ phát tán tờ rơi có nội dung tuyên truyền mê tín dị đoan và giới thiệu kinh thánh, 1 vụ phát tán 4 quyển kinh sấm có nội dung lôi kéo vào đạo.
(1) Trong nhiệm kỳ, Đảng ủy đã xử lý, đề nghị xóa tên 4 đảng viên, khiển trách 1 đảng viên.
(1) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, trang 74.
(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, trang 76
(1) Văn kiện Đại hội Đảng bộ xã lần thứ II nhiệm kỳ 2005-2010
(1) Riêng năm cuối nhiệm kỳ, đã mở 3 lớp dạy nghề về nuôi trồng thủy sản, chăn nuôi và trồng lúa cho 105 nông dân.
(1) Trừ năm 2008 không đạt do ghi nợ phí Bến đò Xã Bảy.
(1) Trong nhiệm kỳ, xã xây dựng mới 16 phòng lầu trường tiểu học, xây dựng mới trường mẫu giáo.
(1) Trong 1.524.500.000 đồng được vận động cho toàn huyện, các công trình “về nguồn” tại xã điểm Phước Tuy chiếm 634.000.000 đồng, cụ thể là: Xây dựng 07 căn nhà tình nghĩa, mỗi căn trị giá 30 triệu; Xây dựng 04 căn nhà đại đoàn kết, mỗi căn trị giá 15 triệu; Khám chữa bệnh người cao tuổi, gia đình chính sách 30 triệu đồng; Cấp học bổng cho học sinh nghèo học giỏi, mỗi em 1 triệu; Tặng 3.500 quyển tập cho học sinh nghèo trị giá 7 triệu đồng; Tổ chức thăm, tặng quà cho người nghèo 26 triệu đồng; Thăm, tặng quà cho gia đình chính sách 10 triệu đồng; Sửa chữa 03 căn nhà cho gia đình chính sách 30 triệu đồng; Hỗ trợ 03 hộ nghèo khó khăn kéo điện thắp sáng 3 triệu đồng; Xây hồ chứa nước cho hộ nghèo 200 triệu đồng; Sửa chữa đường giao thông nông thôn 50 triệu đồng ( Theo Huyện ủy Cần Đước, Ban tổ chức về nguồn năm 2009).
(1) Toàn xã có 120 dân quân (đạt tỉ lệ 1,5% dân số), trong đó, tỉ lệ đảng viên đạt 15, 45% và đoàn viên là 14, 54%.
(2) Đến năm 2010, xã hoàn thành cơ bản giáo dục kiến thức quốc phòng cho đối tượng 5.
(3) xã xây dựng 7 đội dân phòng với 68 thành viên, 7 ban an ninh trật tự với 70 thành viên, 56 tổ an ninh nhân dân với 112 thành viên.
(4) Trong nhiệm kỳ, các tổ hòa giải ở xả đã hòa giải thành công 63/ 106 vụ.
(1) Trong nhiệm kỳ có 5 trường hợp các thương phế binh chế độ Việt Nam cộng hòa gửi đơn ra nước ngoài xin trợ cấp.
(1) Trong nhiệm kỳ, xã phát triển 719 hội viên, đoàn viên, nâng số hội viên lên 3.193.
(1) Trong nhiệm kỳ, Đảng ủy thi hành kỷ luật xóa tên 4 đảng viên, khai trừ 1 và khiển trách 1.
(1) Báo cáo chính trị Đại hội Đảng bộ xã Phước Tuy lần thứ X nhiệm kỳ (2010-2015).